Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Tôi là ai...

 

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Sự vĩ đại đích thực

 

                               


                                                                                                 

 

Năm 1995, nhân dịp tưởng niệm 20 năm biến cố 30 tháng Tư, nhạc sĩ du ca Phan Văn Hưng có sáng tác một ca khúc mang tựa đề “20 năm”. 20 năm là một giai đoạn khá dài trong một đời người. Mới đó mà “đàn trẻ thơ nay đã lớn và chàng trai nay đã già”. Nhưng người nhạc sĩ dường như muốn nói với chúng ta rằng thời gian như ngừng trôi. Cuộc sống xem ra vẫn dậm chân tại chỗ kể từ sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Bởi lẽ “Hai mươi năm (rồi mà vẫn còn) người cụt chân trên hè phố. Kẻ quyền uy trong căn nhà, người nằm rên trong hộ xá”. Vẫn còn cái cảnh “nhiều kẻ gian trong làng xóm, người hiền khô mang gông cùm, kẻ mộng du lên bạo chúa, người ngồi khóc trên sân chùa”. Hay “triệu người đi trong cuộc sống, mà thể xác như không hồn. Triệu người vui trong xa hoa. Triệu người lao trong cùng khốn và buồn vui như bao lần”.

Nay sắp đến kỷ niệm 50 năm biến cố 30 tháng Tư. Nếu nhạc sĩ Phan Văn Hưng sửa lại câu mở đầu thành: “Năm mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã là ông là bà” thì bức tranh vẫn còn nguyên như cũ.

Với tôi, 50 năm cũng vẫn là một cơn ác mộng dài. Cái chế độ mà tôi đã trốn chạy cách nay hơn 40 năm dù có thay da đổi thịt, cái chủ nghĩa vô nhân đạo được áp đặt lên dân tộc tôi dù có bị chôn vùi trong đống rác của lịch sử, những người vẫn tiếp tục vỗ ngực tự xưng là “cộng sản” dù chẳng còn tin hay biết gì về chủ nghĩa ấy...tất cả vẫn đều như cũ! Cái linh hồn của chế độ đó là dối trá, tham tàn, độc ác vẫn còn nguyên vẹn! Và tôi, một người tỵ nạn cộng sản, vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn. Tôi xem hơn năm năm sống dưới chế độ cộng sản và nhứt là cuộc vượt biên đem cuộc sống ra cá cược để đổi lấy hai chữ tự do như một thứ vốn quý giá nhứt trong cuộc đời.

Tôi đã chọn Úc Đại Lợi làm quê hương thứ hai và hình như quê hương thứ hai này lúc nào cũng nhắc nhở tôi về tư cách tỵ nạn của tôi. Thật vậy, trong câu chuyện trao đổi với tôi, hầu như người dân Úc nào, dù thuộc sắc tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, cũng đều có lúc hỏi tôi: gốc gác của ông người nước nào? Và dĩ nhiên tôi được dịp lên giọng “sáu câu” về địa lý, về lịch sử của đất nước tôi và nhứt là hãnh diện “tuyên xưng” rằng tôi đã từng là một “thuyền nhân” và vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản.

Tôi có nghe nói đến sự độc ác của những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng bên Trung Hoa hay Nero của Đế quốc La Mã. Tôi không thể hình dung được sự độc ác của những bạo chúa ấy. Nhưng sự tàn bạo dã man ngoài sức tưởng tượng của tôi mà Đức quốc xã và bạo chúa Adolf Hitler đã để lại trong lịch sử nhân loại thì tôi tin như kinh “tin kính” trong nhà đạo của tôi. Bởi lẽ vô số những nạn nhân đã từng sống sót trở về từ những trại tập trung hay lò sát sinh mà Hitler đã cho dựng lên khắp Âu châu đã là những nhân chứng sống động về sự độc ác ấy.

Chỉ có những con người không có trái tim mới chối bỏ điều đó. Tôi không thể tưởng tượng được người giàu có nhứt hành tinh hiện nay là Elon Musk đã có thể ngang nhiên chối bỏ tội ác của Hitler. Ông khẳng định rằng Hitler không hề giết 6 triệu người Do Thái. Không riêng Hitler, mà ngay cả những bạo chúa của các chế độ cộng sản như Stalin và Mao Trạch Đông cũng đều được Musk “xá giải” hết. Mọi tội ác đều được trút lên đầu các cộng sự viên của các bạo chúa này (1).

Đã có vô số những nạn nhân sống sót từ các trại tập trung của Đức quốc xã đã làm chứng về tội ác của Hitler. Và dĩ nhiên cũng  đã và đang có vô số những nạn nhân của các chế độ cộng sản làm chứng về tội ác của cộng sản. Tôi hãnh diện được mãi mãi làm một chứng nhân như thế. Hitler đã chết. Đức Quốc xã cũng đã chết. Nhưng chế độ cộng sản mà tôi đã trốn thoát vẫn còn đó. Tôi muốn được mãi mãi làm một người tỵ nạn để làm chứng về tội ác của chế độ đó. Nhưng chứng từ của tôi trước tiên phải là một bài học nhớ đời cho chính bản thân tôi. Người ta thường gán cho triết gia, thi sĩ Tây Ban Nha, ông George Santayana (1863-1952) câu nói: “Những ai quên lịch sử sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật ra câu nói đúng của ông là “những ai không thể nhớ quá khứ sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật thế, có biết bao nhiêu người, trong đó có rất nhiều người Việt Nam đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đã từng vượt biên và được Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc nhìn nhận như một người tỵ nạn, nay “qua cầu rút ván”,  quay lưng lại quá khứ để tôn thờ những lãnh tụ sặc mùi kỳ thị, miệt thị và khước từ những người đồng loại đang lâm vào cùng một cảnh ngộ như mình trước kia.

Tôi tự nhủ sẽ mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản để không bao giờ quên quá khứ và như thế để không ngừng chiến đấu chống lại trong chính bản thân tôi những khuynh hướng thấp hèn nhứt trong con người là dối trá, kỳ thị, hận thù, tham tàn và độc ác.

Sắp bước vào tuổi bát tuần, tôi cảm thấy như bị bỏ lại đàng sau trong đà tiến nhanh đến chóng mặt của thế giới ngày nay. Trong phần mở đầu của biên khảo có tựa đề “Homo Deus: A brief History of Tomorrow” (Tạm dịch: Con người sẽ trở thành Thượng Đế: một lịch sử ngắn của ngày mai), sử gia Yuval Noah Harari đã nói đến hai bước tiến bộ vượt bực của nhân loại: một là chiến thắng trên sự chết, hai là loại trừ được chiến tranh! Theo ông, y khoa đang tiến tới một giai đoạn chắc chắn trong đó tất cả các cơ phận con người đều có thể “tái sinh” để giúp con người có thể sống mãi. Dĩ nhiên, con người không trở thành bất tử (immortal), bởi vì tai nạn hay ý muốn chết vẫn có thể cướp đi mạng sống con người, nhưng sống mãi (amortal) là điều nằm trong khả năng của con người. Về chiến tranh, ông cho rằng thế giới sẽ không bao giờ có thế chiến thứ ba nữa. Mặc cho Bắc Hàn có điên khùng đến đâu, mặc cho Nga có nhiều lần mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa, ai cũng biết rằng mó tay vào thứ vũ khí này, cả thế giới đều ra tro.

Về những tiến bộ vượt bực của thế giới ngày nay, tỷ phú Bill Gates, đồng sáng lập viên của công ty Microsoft mới đây đã tiên báo rằng chỉ trong 10 năm nữa, trí khôn nhân tạo (AI) sẽ thay thế con người trong hầu hết mọi sự. Cụ thể, sẽ đến lúc thế giới sẽ chẳng cần bác sĩ và thày giáo nữa, bởi vì trí khôn nhân tạo sẽ làm việc trong lãnh vực y tế và giáo dục một cách hiệu quả hơn (2).

Tôi không biết mình có sống tới ngày đó để tận mắt nhìn thấy những tiến bộ như thế không. Tôi chỉ biết chắc có một điều: trí khôn nhân tạo đã mở tung hộp Pandora ra và loài sâu bọ khủng khiếp nhứt trong trái tim con người là sự dối trá hiện đang lan tràn khắp thế giới. Có lẽ chưa bao giờ con người dễ nói dối, dễ tin những lời dối trá và cũng dễ phát tán những lời dối trá cho bằng ngày nay.

Trong các chế độ độc tài, mọi lối dẫn vào sự thật đều bị bưng bít. Người dân trong các chế độ đó chỉ nhận được thông tin một chiều cho nên không thể kiểm chứng được những gì họ nghe. Cách đây 2 năm, khi về thăm nhà, tôi nhận thấy cuộc sống của những người bà con thân thuộc của tôi có phần khá giả hơn trước kia nhiều. Nhiều người đã xây nhà mới. Có người cũng có xe hơi. Còn những phương tiện truyền thông như Iphone, Smartphone...thì quả thật “chạy đầy đường”. Và điều khiến tôi lo ngại nhứt là khi cầm những phương tiện đó trên tay và chúi mũi vào đó hầu như từng phút từng giây, ai cũng nghĩ rằng mình thông biết mọi sự trên đời. Nhưng hầu như mọi thứ “thông tin” mà họ nhận được và hăng say quảng bá đều là những tin giả và thuyết âm mưu. Tác động của trí khôn nhân tạo, mà cụ thể là qua các mạng lưới thông tin toàn cầu có lẽ một phần đã củng cố cho các chế độ độc tài và một cách nào đó tạo điều kiện cho tin giả, các thuyết âm mưu và sự dối trá đầu độc người dân trong các chế độ độc tài.

Nhưng con sâu dối trá mà hộp Pandora đã tung ra khắp mặt đất không chỉ đục khoét đầu óc của người dân trong các chế độ độc tài. Trong một quốc gia dân chủ và văn minh nhứt thế giới như Hoa Kỳ, con sâu dối trá hiện đang phá nát đất nước này và làm đảo điên khắp thế giới.

Kể từ khi ông Donald Trump xuất hiện trong chính trường Mỹ, nghe những gì ông nói, nhứt là khi nổ ra đại dịch Covid-19 và những phát biểu của ông về địa lý và chính trị thế giới, những cộng tác viên thân cận nhứt của ông trong nhiệm kỳ đầu thường hay dùng từ “đần độn” (moron) để nói về sự hiểu biết và trí thông minh của ông. Một tờ báo bảo thủ như The Wall Street Journal, trong bài xã luận viết về cuộc chiến thuế quan của ông, cũng đã gọi đây là “cuộc chiến thương mại ngu xuẩn nhứt trong lịch sử”(3). Tôi vẫn thử cố gắng “làm trạng sư của quỷ” để bênh vực cho những chính sách và đường lối của ông: Là “con nhà trời”, là “thiên sứ” được Thượng Đế sai đến cho nên cũng như Thượng Đế, ông có lối suy nghĩ, cách tính toán và những chính sách “cao siêu” mà trí khôn của một người phàm như tôi không thể nào hiểu thấu được. Một số bạn bè của tôi ở Úc này, vốn là những người tôn thờ ông, đã khuyên tôi phải kiên nhẫn chờ đợi 4 năm nữa mới thấy được kết quả của những chính sách của ông. Tôi đang tập kiên nhẫn để tạm tin như thế. Chỉ có điều tôn thờ ông thì không, dù ông có là ông trời con đi nữa. Làm sao tôi có thể sùng bái hay suy tôn một người có một nhân cách tồi tệ như ông. Mà tồi tệ nhứt trong nhân cách đó chính là sự lọc lừa dối trá. Theo sự kiểm chứng của báo The Washington Post, trong 4 năm nhiệm kỳ đầu của ông, ông đã nói dối hơn 30 ngàn lần, nghĩa là trung bình mỗi ngày ông nói dối hơn 50 lần. Không cần phải kiểm chứng, bất cứ ai còn biết tôn trọng lẽ phải và có chút lương tri cũng đều nhìn thấy việc phủ nhận kết quả bầu cử và xúi dục bạo loạn hồi năm 2020 là một lời dối trá mà chỉ có một tên lưu manh như ông mới có đủ trơ trẽn để làm. Rồi mới đây, mặc cho đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã lên án hành động xâm lược Ukraine của Nga, ông đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết, nghĩa là chối bỏ sự thật và bênh vực hành động tàn ác của Nga. Đó là chưa kể việc ông lật lọng đến độ lên án Ukraine là nước gây ra chiến tranh và gọi nguyên thủ của nước này là một nhà độc tài.

Người dân Mỹ đã bầu một tên dối trá như thế lên làm tổng thống. Sự dối trá đã trở thành chuẩn mực cho cuộc sống và cứu cánh biện minh cho phương tiện là phương châm hành động. Không cần biết Donald Trump có dối trá và nhân cách có tồi tệ đến đâu miễn là ông “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.

Cứ mỗi lần nghe hai chữ “vĩ đại”, tôi lại nhớ đến một người bạn dạy Anh văn trung học đệ nhị cấp trước năm 1975. Sau 30 tháng Tư, anh được lưu dụng một thời gian. Anh kể lại: trong một giờ học, anh hỏi các em học sinh phải dịch hai chữ “vĩ đại” như thế nào sang Anh ngữ. Một em đã hớn hở nói lớn: “Thưa thày, vĩ đại dịch sang tiếng Anh là “enormous”. Anh bảo: anh phá lên cười và nghĩ bụng, nếu áp dụng từ Anh ngữ này cho con người đang được suy tôn là “vĩ đại” thì thật là “khủng khiếp”.

Nghĩ đến hai chữ “vĩ đại”, tôi cũng  liên tưởng đến một đoạn trong phim “Chuyện tử tế” được đạo diễn Trần văn Thủy thực hiện năm 1985. Nhà làm phim có hỏi một đám trẻ con nghĩ gì về hai chữ “vĩ đại”. Một em nói: “vĩ đại” thì chúng cháu có nghe nói, nhưng chưa từng thấy.

Thật vậy, sự vĩ đại đích thực không nằm trong sức mạnh kinh tế hay quân sự, mà chỉ được nhìn thấy trong tâm hồn hay tư cách của một con người. Văn hào Victor Hugo, người đã đề cao sự nhẫn nhục hy sinh và thương người của người gù Quasimodo trong quyển tiểu thuyết “Người gù nhà thờ Đức Bà Paris”, đã nói: “Có một quang cảnh vĩ đại hơn đại dương, đó là bầu trời. Có một quang cảnh vĩ đại hơn bầu trời, đó là tâm hồn con người” Điều này hoàn toàn đúng với danh hiệu “Mahatma” (vĩ đại) mà người dân Ấn Độ đã truy tặng cho Gandhi, người đã giành được độc lập cho Ấn Độ mà không cần một vũ khí nào khác hơn là chủ trương “Satyàgraha” nghĩa là “kiên trì trong sự thật”. Quả thật, như Chúa Giêsu đã dạy “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người”. Trong thế giới đang đảo điên vì dối trá, có lẽ chỉ có những ai dám sống chết và lên tiếng cho sự thật, người đó mới thật sự được giải phóng và trở thành  “vĩ đại”.

Chu Văn Tháng Tư 2025

 

Chú thích

1.Jordan Liles ,Fach Check: Musk reposted post that said “Stalin, Mao and Hiler didn’t murder millions of people Yahoo news  March 15, 2025

2.Ariel Zilbar, Bill Gates: AI replace major jobs within 10 years, humans won’t be needed “for most things” New York Post March 29, 2025

3.Edward Helmore, Wall Street Journal editorial calls Trump tariffs “dumbest trade war in history” 3 Feb 2025

 

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

Tương lai thuộc về lòng nhân ái


                    


                                                                  Chu Văn

Trong bài diễn văn nhậm chức hôm 20 tháng Giêng vừa qua, Tổng thống Donald Trump tuyên bố rằng ngày hôm đó  là “Ngày Giải Phóng”. Một ký giả người Việt tại California nói rằng hai chữ “giải phóng” nghe “quen quen”. Người Việt Nam nào đã từng chứng kiến ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Miền Bắc và sống dưới chế độ cộng sản dù chỉ vài ngày thôi cũng đều thấm thía hiểu được thế nào là “giải phóng”.

Riêng tôi, khi đọc lại bài diễn văn của Tổng thống Trump, tôi đặc biệt chú ý đến “phép lạ” ông thoát khỏi một cuộc mưu sát. Ông nói: “Trên cánh đồng xinh đẹp ở Pennsylvania vài tháng trước, viên đạn của một sát thủ đã xuyên qua tai tôi. Nhưng ngay cả khi đó và bây giờ, tôi đều tin rằng mình đã thoát chết là có lý do. Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Lời tuyên bố này, tôi cũng nghe “quen quen”. Cách đây hơn 90 năm, Adolf Hitler cũng đã từng tuyên xưng một niềm tin như thế vào Chúa.

Ngày 30 tháng Giêng năm 1933, Tổng thống Đức Paul von Hinderburg đã chọn lãnh tụ của Đảng Quốc xã là Adolf Hitler làm thủ tướng. Không đầy một tháng sau đó, không rõ do nguyên nhân nào, tòa nhà Quốc Hội bị cháy. Hitler đã nhân cơ hội này thuyết phục Tổng thống Hindenburg ban hành Sắc lệnh Bảo vệ Người dân và Quốc gia. “Sắc lệnh này xóa bỏ các quyền tự do cơ bản, bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí. Nó cũng cho phép chính phủ giam giữ bất kỳ ai mà không cần xét xử”(1). Một tháng sau đó, dưới quyền kiểm soát của Hitler, quốc hội bù nhìn đã thông qua một đạo luật cho phép Hitler ban hành bất cứ luật nào mà không cần sự chuẩn thuận của Hạ Viện. Hitler đã thu tóm mọi quyền lực trong tay và nước Đức đã hoàn toàn nằm dưới chế độ độc tài. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, ký ức tập thể của nhân loại sẽ không bao giờ phai mờ. Nếu cần đặt tên cho cái Ác, có lẽ không có tên gọi nào chính xác hơn là Adolf Hitler!

Năm năm sau khi nắm quyền sinh sát trong tay, tức năm 1938, Hitler đã đưa quân sang chiếm Áo Quốc và sát nhập vào Đế chế Đức. Người con của Áo Quốc đã huênh hoang trở về thăm quê cha đất tổ. Trong một bài diễn văn đọc tại Thủ đô Vienna, là một tín đồ công giáo, Hitler đã nói đến bàn tay “Quan Phòng” của Chúa trong sự nghiệp chính trị của ông như sau: “Tôi tin rằng chính Chúa đã muốn gởi một người con (của Áo Quốc) qua Đế chế Đức, để nó lớn lên và cất nhắc nó thành nhà  lãnh đạo quốc gia và đưa quê hương trở lại với Đế chế”(2).

Tháng Mười Một năm 1939, Hitler đến thăm câu lạc bộ bia Burgerbraukeller, trong Thành phố Munich. Đây là nơi mà năm 1925 Hitler đã loan báo thành lập Đức Quốc Xã. Trong chuyến viếng thăm nói trên, ông đã thoát khỏi một cuộc mưu sát trong đường tơ kẽ tóc. Hãy nghe người được Chúa “tuyển chọn” một lần nữa xác quyết về bàn tay “Quan phòng” của Chúa trong cuộc mưu sát này: “Giờ đây tôi hoàn toàn tin tưởng. Sự kiện tôi rời khỏi Burgerbraukeller sớm hơn thường lệ đã củng cố niềm tin (của tôi) về ý định của Chúa Quan Phòng muốn tôi đạt được mục đích của tôi” (3).

Mục đích của Hitler là gì?  Ngoài tham vọng muốn làm bá chủ Âu Châu và ngay cả thế giới, “mục đích” của Hitler chính là tiêu diệt người Do Thái. Ngay từ năm 1923, ông đã khẳng định: “Điều đầu tiên phải làm là cứu nước Đức khỏi tay người Do Thái là những kẻ đang cai trị đất nước chúng ta...Chúng tôi không muốn để cho nước Đức phải chịu chết trên thập giá như Đấng Kia (tức Đức Giêsu)”(4). Theo đúng truyền thống Kitô giáo, cách riêng Công giáo vào thời đó, Hitler thù ghét người Do Thái vì xem họ như những kẻ “giết Chúa”. Mãi cho đến cuối năm 1941, nghĩa là sau khi đề ra điều thường được gọi là “Giải pháp cuối cùng”, tức chương trình tiêu diệt 6 triệu người Do Thái tại 21 quốc gia ở Âu Châu, Hitler vẫn còn tâm sự với người phụ tá thân cận của mình là tướng Gerhard Engel: “Tôi vẫn mãi mãi là một người công giáo” (5). Không những Hitler tự nhận mình là một người công giáo, mà rất nhiều người công giáo Đức cũng tin tưởng rằng ông là một người công giáo thuần thành. Ngay cả Hồng y Michael Faulhaber, Tổng giám mục Munich, sau cuộc mưu sát Hitler tại Burgerbraukeller, cũng đã cho tập họp giáo dân lại trong nhà thờ chính tòa của giáo phận để hát bài ca Te Deum (tạ ơn Chúa) vì đã che chở lãnh tụ kính yêu của Đức!

Sáu triệu người Do Thái đã bị bàn sát một cách dã man trong các trại tập trung và lò sát sinh trên khắp Âu Châu. Hitler, dù có độc ác đến đâu, cũng không có đủ năm đầu sáu tay để phạm một tội ác khủng khiếp như thế. Đã có vô số người Đức đã tích cực tham gia vào tội ác hoặc thinh lặng đồng lõa trước tội ác. Tất cả đều bị cuốn hút vào một trào lưu chung là bài Do Thái mà thiết yếu vẫn là “niềm tin tôn giáo” theo đó người Do Thái là “bọn giết Chúa” đáng bị thù ghét và tiêu diệt. Không chỉ người công giáo mà ngay cả nhà Cải Cách Tin Lành Martin Luther cũng đã từng viết một quyển sách trong đó ông gọi người Do Thái là “loài rắn lục” cần phải bị loại trừ ra khỏi nước Đức. Có thể Hitler đã lợi dụng trào lưu bài Do Thái ấy để phạm tội ác. Nhưng căn cứ trên những lời tuyên bố và “tuyên xưng” của ông có lẽ không ngoa để bảo rằng ông đã nhân danh Kitô giáo để phạm tội ác!

Sở dĩ tôi liên tưởng đến Hitler khi nghe Tổng thống Trump khẳng định “Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” là bởi vì có lẽ hơn bất cứ vị tổng thống Mỹ nào khác, ông không ngừng “tuyên xưng” niềm tin tôn giáo và cam kết “tranh đấu” để “bảo vệ” Kitô giáo tại Mỹ. Trong cuộc tranh cử tổng thống suốt năm 2024 vừa qua, ông luôn luôn hứa sẽ đưa các tín hữu Kitô Mỹ trở lại nắm quyền chính trị.  Dạo tháng Hai năm vừa qua, trong một phòng chật ních các phóng viên và ký giả đặc trách về tin tức tôn giáo, ông hứa: “Nếu tôi trở lại (Tòa Bạch Ốc), quý vị sẽ sử dụng quyền lực chưa bao giờ có trước đó. Với sự giúp đỡ và ơn Chúa, cuộc canh tân của nước Mỹ sẽ bắt đầu vào ngày mùng Năm tháng Mười Một”. Trong nhiều cuộc vận động khác nhau, ông cam kết sẽ để cho các nhà lãnh đạo Kitô giáo có một đường giây “trực tiếp với Tòa Bạch Ộc và với ông” đồng thời  sẽ thành lập một ủy ban đặc nhiệm để “chấm dứt việc vũ khí hóa chính phủ chống lại các tín hữu Kitô” (6).

Donald Trump có phải là một tín hữu Kitô thuần thành  quyết tâm tranh đấu để “bảo vệ” Kitô giáo không? Một trong những chức sắc công giáo hàng đầu của Giáo hội Công giáo tại Mỹ là Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, người luôn “sát cánh” với ông, tin rằng tổng thống Trump là “người xem trọng niềm tin Kitô giáo của mình” (7). Nhưng đâu là “niềm tin Kitô giáo” được ông Trump “xem trọng”? Có lẽ cả nước Mỹ sẽ không bao giờ quên bức hình chụp ông đứng trước cửa một nhà thờ gần Tòa Bạch Ốc, trên tay “cầm ngược” Quyển Kinh Thánh. Vô tình hay hữu ý, không ai biết. Nhưng bức ảnh này có lẽ nói lên “thứ Kitô giáo” của riêng ông, được ông không ngừng “rao giảng”. Thật vậy, khi ra tranh cử tổng thống lần đầu tiên năm 2016, trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh, khi được hỏi câu nào hay câu chuyện nào trong Kinh Thánh ông ưa thích nhứt, ông trích câu “mắt đền mắt răng thế răng” (8). Đúng là Kinh Thánh “cầm ngược”! Đúng là “niềm tin Kitô giáo” của riêng Donald Trump! Và ông đã “xem trọng” một “niềm tin Kitô giáo” của riêng ông như thế trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông và nhứt là trong suốt mấy tuần lễ đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai này. Suốt trong 8 năm qua và cho đến nay, bên cạnh những lời láo khoét và dối trá, những lời ông nói ra toàn sặc mùi thù hận và hàng trăm sắc lệnh hành pháp ông đưa ra hầu hết đều qui về sự trả thù.

Nếu Chúa Giêsu trở lại và lắng nghe những lời “rao giảng” của Donald Trump về Kitô giáo, liệu Ngài có còn nhận ra Tin Mừng của Ngài không? Liệu 80 phần trăm các tín hữu Tin Lành và hơn 50 phần trăm người công giáo Mỹ đã dồn phiếu cho ông Trump trong các cuộc bầu cử vừa qua có nhận ra được Tin Mừng của Chúa Giêsu trong những hành động và những lời “rao giảng” của ông Trump không?

Càng gần đất xa trời, tôi không ngừng “về thu xếp lại” mọi sự trong cuộc sống. Ngay cả trong niềm tin tôn giáo, tôi cũng muốn “về thu xếp lại” cho gọn gàng hơn. Có thể tôi chẳng còn tin có một Thiên Chúa nếu Ngài chọn riêng một dân tộc, ra lệnh tiêu diệt những dân tộc khác, bách hại tín đồ của những tôn giáo khác và như vậy gieo rắc hận thù trong lòng người...Nhưng tôi tin chắc rằng tôi chỉ có thể thực sự sống niềm tin Kitô giáo của tôi nếu tôi cố gắng thực thi lời rao giảng của Chúa Giêsu (Matthew 25, 31-46) như được nữ Giám mục Mariann Budde quảng diễn trong bài giảng đọc trước Tổng thống Trump tại nhà thờ Chính tòa quốc gia ở Washington, một ngày sau khi ông nhậm chức. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu chẳng hỏi tôi “có đạo” không, có thuộc Giáo hội nào không, có đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhựt không, có thuộc và tuyên xưng Kinh Tin Kính không, có in ấn và phân phát Kinh Thánh không, có tranh đấu để đưa Kitô giáo vào địa vị độc tôn trong xã hội không...Ngài chỉ hỏi tôi có yêu thương những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thân cô thế, những người bị phân biệt vì những khác biệt của họ, những người khách lạ hay đặt vào hoàn cảnh hiện tại ở Mỹ, có yêu thương những người di cư, tỵ nạn không? Có lẽ nếu có trở lại trần gian một lần nữa và nhứt là nhập thể làm người ở Mỹ, không chừng Ngài sẽ hóa thân làm Nữ thần Tự Do...

Có người cho rằng những gì Tổng thống Trump làm là cần thiết, như những “liều thuốc đắng” để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Tôi e rằng đó không phải là những “liều thuốc đắng” mà chỉ là những “liều thuốc độc” hủy hoại đời sống của tất cả mọi người. Kitô giáo được gọi là Đạo của Tình thương. Người Kitô giáo sống trong quỹ đạo của Tình Thương. Vậy, Tình Thương đang ở đâu?

Tôi không biết một người như Donald Trump có hạnh phúc không nếu phải thức hầu như suốt đêm để phóng lên mạng Truth Social những lời rủa sả, hậm hực đầy hận thù. Tin Mừng của Chúa Giêsu không chỉ hứa hẹn cho tôi một thiên đàng ở đời sau, mà còn bảo đảm cho tôi niềm hạnh phúc ngay trên cõi đời này. Thật vậy, con người chỉ thật sự cảm nhận được hạnh phúc và bình an khi họ muốn yêu thương người khác bằng cách sống khoan nhượng, cảm thông, bao dung, tha thứ với mọi người. Và dĩ nhiên, nếu nhân loại còn có một tương lai thì tương lai đó chỉ có thể thuộc về lòng nhân ái!

Chu Văn

 

 

Chú thích

1. Kalyn Ngô, 53 ngày của Adolf Hitler và Một ngày của Donald Trump, Việt Báo 21/01/25.

2. Richard Dawkins, The God Delusion, Bantam Press, 2006. trg 277.

3. sđd

4. sđd

5. sđd

6. Elizabeth Bruenig, “A very Christian concept”, The Atlantic, February 9, 2025

7.Tara Sutter, Cardinal Dolan: Trump “takes his Christian faith seriously”, The Hill 12/23/24.

8. Rebecca Shabad, Donald Trump names his favorite Bible verse, CBS News April 14, 2016

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2024

Chúc những ngày nghỉ lễ hạnh phúc!

 

                          

                                                                                                                                                        

 


Một ông bạn “đồng đạo” thỉnh thoảng gọi điện thoại để tâm sự về “chuyện đạo”. Mới đây ông cho biết cậu con trai út của ông đã mua được nhà và dọn ra riêng. Con cái đến tuổi trưởng thành có được cuộc sống tự lập là điều đáng mừng. Nhưng ông bạn tôi lại than rằng con trai ông dọn ra riêng là để được sống “tự do” với cô bạn gái của nó. Mà cô bạn gái này lại mới “trở lại đạo”, nghĩa là mới được “rửa tội” để trở thành một người công giáo thực thụ. Ông bạn đồng đạo của tôi “phán”: “Vậy là chúng nó đang sống trong tội lỗi, bởi vì theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo, hai người công giáo “ăn ở” với nhau mà không có “phép đạo”, nghĩa là không chính thức cưới hỏi trong nhà thờ là “rối đạo”. Có đến nhà thờ thì cũng không được lên rước Chúa Giêsu hiện diện trong bánh thánh”.

Ông bạn đồng đạo của tôi còn nói đến một thứ tội khác mà cậu con trai út của ông và cô bạn gái của nó đang “phạm”, đó là sử dụng các phương tiện ngừa thai nhân tạo, bởi vì giáo huấn của Giáo hội nghiêm cấm sử dụng các phương tiện này. Về giáo huấn này thì những người công giáo ở tuổi U80 như ông bạn đồng đạo của tôi và tôi đều rành “sáu câu”. Còn nhớ vào khoảng đầu thập niên 1960 của thế kỷ trước, tại các nước Tây Phương đã nổ ra điều thường được gọi là “cuộc cách mạng tình dục” và hệ quả của nó là “cuộc giải phóng phụ nữ”. Một cách cụ thể, nhờ các phương tiện như viên thuốc ngừa thai, bao cao su (condom), vòng xoắn, cắt ống dẫn tinh...việc ngừa thai được an toàn hơn, chức năng của người phụ nữ không chỉ giới hạn trong việc “mang nặng đẻ đau”, vợ chồng có thể lên kế hoạch về số con cái họ có thể nuôi dạy phù hợp với tình trạng kinh tế của gia đình, sức khỏe của người phối ngẫu được bảo đảm và dĩ nhiên tình yêu lứa đôi cũng có ý nghĩa hơn...Đứng trước cuộc cách mạng này, các nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo trên khắp thế giới và rất nhiều giáo dân không khỏi hoang mang. Họ muốn nghe được tiếng nói chính thức của Giáo hội. Năm 1968, nhà lãnh đạo tối cao của Giáo hội lúc bấy giờ là Giáo hoàng Phaolô VI liền cho thành lập một ủy ban gồm một số chuyên gia thuộc nhiều lãnh vực khác nhau như thần học, khoa học, y tế, xã hội học, tâm lý học...để tham khảo ý kiến. Sau một thời gian thảo luận, ủy ban đã đệ trình lên kiến nghị yêu cầu cho phép người giáo dân được sử dụng các phương tiện ngừa thai nhân tạo. Nhưng nhân danh quyền giảng dạy tối thượng trong Giáo hội, Giáo hoàng Phaolô VI đã cho công bố giáo huấn có tên là “Thông điệp Sự sống Con người” (Humanae Vitae) nghiêm cấm việc sử dụng các phương tiện ngừa thai nhân tạo. Kể từ đó, người công giáo có thể mắc thêm một cái tội nữa là tội sử dụng các phương tiện ngừa thai nhân tạo!

Ông bạn đồng đạo của tôi cũng có lần nói đến sự “bối rối” của các quân nhân công giáo trước năm 1975. Công tác xa nhà, hành quân nay đây mai đó, thỉnh thoảng mới được vài ngày phép về thăm gia đình, kinh tế gia đình èo ọp, lại sống nay chết mai...liệu có quân nhân công giáo nào có thể triệt để tuân hành giáo huấn của Giáo hội không?

Chiến đấu một mất một còn ngoài  trận mạc, các quân nhân công giáo trước năm 1975 hẳn còn phải trải qua một cuộc chiến đấu nội tâm cam go hơn khi phải đối đầu với giáo huấn của Giáo hội. Nhưng nhắc đến tình cảnh éo le của các quân nhân công giáo, tôi không thể không liên tưởng đến số phận có lẽ còn thảm thương hơn của nhiều người công giáo tại nhiều nước Phi Châu trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh Aids-HIV (Sida). Khi cơn dịch bệnh hiểm nghèo này bùng phát tại lục địa đen, Tổ chức Y tế Thế giới, Liên Hiệp Quốc và các nước Tây Phương đều xem việc sử dụng bao cao su như phương thế hiệu nghiệm nhứt để phòng chống lại nó. Nhưng các nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo vẫn khăng khăng lên án biện pháp phòng chống này. Năm 2005, ký giả John Thavis, đặc phái viên của hãng tin công giáo Hoa Kỳ Catholic News Service tại Vatican, đã ghi lại lập trường của Giáo hoàng Benedictô XVI trong chuyến viếng thăm Phi Châu đầu tiên của ngài. Trên chuyến bay từ Ý sang Cameroun, khi được các ký giả tháp tùng hỏi về giáo huấn của Giáo hội đối với việc sử dụng bao cao su để phòng chống dịch bệnh Aids-HIV, vị giáo hoàng này đã trả lời một cách dứt khoát rằng “bạn không thể giải quyết vấn đề bằng việc phân phát bao cao su; trái lại bao cao su làm cho vấn đề thêm tồi tệ hơn” (1).

Ôn lại giáo huấn luân lý của Giáo hội Công giáo về hôn nhân, tính dục và nhứt là vấn đề ngừa thai bằng những phương pháp nhân tạo, ông bạn đồng đạo của tôi đã có lúc thở dài như để bày tỏ một chút cảm thông với cậu con trai út của mình: “Người công giáo tụi mình đã được dạy dỗ ngay từ nhỏ để nhìn đâu cũng thấy tội”.

“Nhìn đâu cũng thấy tội” cho nên cử chỉ tiêu biểu nhứt của người công giáo ở mỗi đầu thánh lễ chính là đấm ngực xưng thú “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Một nhà báo Việt Nam ở California, cứ mỗi lần nói đến người công giáo, luôn gọi họ là dân “đấm ngực”!

Ngay từ lúc lên bảy, tôi đã biết đấm ngực. Thật vậy, 7 tuổi, tôi đã được dạy và buộc phải đi xưng tội hai tuần một lần. Tôi vẫn còn nhớ mãi: một vị linh mục người Pháp khi về làm quản nhiệm xứ đạo của tôi đã phát cho mỗi đứa trẻ một cuốn sổ để mỗi lần đi xưng tội được ông ký tên vào đó. Mỗi lần trình diện để xưng tội là một cực hình đối với đứa trẻ 7 tuổi như tôi: lục xét mãi mà không tìm ra tội thì đành phải “phịa” thôi!  Nhưng có lẽ tôi không bao giờ quên được những cú tát tai in năm ngón tay trên má từ một vị linh mục người Việt Nam. Tôi bị trừng phạt ngay trong nhà thờ và trước mặt mọi người chỉ vì cái tội trốn học giáo lý.

Tôi sợ ông cha sở. Tôi sợ các bà “xơ”. Và dĩ nhiên tôi sợ tội. Tôi sợ nhứt là tội bỏ lễ và “làm việc xác” ngày chúa nhựt. Bà mẹ rất mực “đạo đức” của tôi lúc nào cũng hù dọa: bỏ lễ chúa nhựt mà “chết tươi ăn năn tội chẳng kịp” thì chắc chắn phải “sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp” mà thôi.

Thời đó, tức giữa thập niên 1950 của thế kỷ trước, thỉnh thoảng có các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đến xứ đạo của tôi để gọi là “giảng tuần đại phúc”. Trong suốt một tuần, các bài giảng của các vị linh mục này hoàn toàn tập trung vào chủ đề “hỏa ngục”. Với tài hùng biện mà các cha sở thường không có, các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế mô tả “hỏa ngục” với những hình ảnh sống động và khủng khiếp như thể các vị vừa mới đi chầu Diêm Vương trở về. Ai nghe mà chẳng sợ phải “sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp!”

Tôi được dạy dỗ để nhìn đâu cũng thấy tội, để sợ tội và sợ hỏa ngục. Và dĩ nhiên, cùng với nỗi sợ ấy, tôi cũng bị nhồi nhét vào đầu tinh thần bất khoan nhượng. Không rõ ông bà tổ tiên của tôi từ đâu và lúc nào đã có mặt trong xứ đạo. Chỉ biết xứ đạo nguyên thủy là một làng của người Chàm. Hiện nay trong làng vẫn còn rất nhiều bia mộ của người Chàm. Lúc nhỏ có những đêm tôi lén đi theo người lớn để xem cảnh đào mả Chàm để lấy vàng. Có một số người chết vì “bệnh lạ”. Người ta bảo đó là những người đã bị vàng của người Chàm “bắt”! Người công giáo sống giữa những di tích của người Chàm và dĩ nhiên cũng hòa đồng với những người ngoài công giáo. Giữa làng có một ngôi đình. Lẽ ra đó là một cơ sở văn hóa và xã hội để mọi người dân làng có thể gặp nhau mỗi năm ít nhứt một lần. Nhưng người công giáo vẫn xem đó là nơi cư ngụ của ma quỷ chỉ dành riêng cho “kẻ ngoại” hay “người lương” mà thôi. “Kẻ ngoại” hay “người lương” là những người không được rửa tội.  Trong cuộc sống hằng ngày, họ là ông bà, cô dì, chú bác và anh em họ của tôi. Nhưng trong thâm tâm, người công giáo trong xứ đạo của tôi vẫn xem họ là “kẻ ngoại”, là “người ngoài”. Dù có ăn ngay ở lành cỡ nào, nếu chết mà không được rửa tội thì họ cũng phải sa hỏa ngục mà thôi. Ngay cả con nít mới lọt lòng mẹ mà chết trước khi rửa tội thì cũng đâu có được lên thiên đàng!

Tôi đã được dạy dỗ để nhìn đâu cũng thấy tội, để sợ hỏa ngục và cũng để nhìn người khác đạo với cái nhìn bất khoan nhượng như thế. Cuốn giáo lý mà bọn trẻ công giáo chúng tôi phải “tụng” mỗi ngày được gọi là “ cuốn thiên”, nghĩa là cuốn sách gồm có “chín thiên và mười giái” (“giái” là giới nói theo giọng địa phương). “Thiên” thứ nhứt xướng như sau: “Thiên Chúa Nhứt Thể Tam vị đệ nhứt thiên”. Câu hỏi thưa đầu tiên là : “Hỏi có mấy đàng lên thiên đàng? Thưa có một đàng rất chánh rất thật là đạo thánh Đức Chúa Trời”! Ngoài “ đàng” ấy ra thì tất cả mọi con đường khác đều dẫn xuống hỏa ngục!

Ngày nay, gần đất xa trời, đã đến lúc cần phải “về thu xếp lại”, càng suy nghĩ về con đường mình đã đi qua, tôi càng hiểu được tại sao đã có những cuộc thánh chiến, những cuộc thập tự viễn chinh, những giàn hỏa thiêu dành cho những người bị xem là lạc giáo, và cả những cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa những người cùng tôn thờ một Thiên Chúa...Trong tác phẩm “Sapiens”, tóm tắt lịch sử của nhân loại, sử gia Yuval Noah Harari, hiện đang giảng dạy tại Đại học Jerusalem, Israel, đã có một nhận xét khá lý thú về các tôn giáo độc thần. Theo tác giả, các tôn giáo độc thần như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo là những tôn giáo có chủ trương bách hại các tôn giáo khác hơn là đa thần giáo. Riêng về Kitô giáo, sử gia Harari ghi nhận rằng trong suốt 300 năm trước khi Hoàng đế Constantino trở thành một tín hữu Kitô, các hoàng đế La Mã đã phát động 4 cuộc bách hại các tín hữu Kitô. Nhưng trong suốt 3 thế kỷ, con số các tín hữu Kitô bị sát hại chỉ có vài ngàn người. Trong khi đó, trong 1500 năm tiếp theo sau đó, con số nạn nhân bị tàn sát trong cuộc chiến tương tàn giữa các tín hữu kitô để gọi là bảo vệ tôn giáo của “tình yêu và sự cảm thông”  lên đến hàng triệu người... Theo ông, “những người theo các tôn giáo độc thần có khuynh hướng cuồng tín và truyền đạo hơn những người theo đa thần giáo”(2).

Nhìn lại cuộc bầu cử tổng thống vừa qua tại Hoa Kỳ, tôi vẫn xem tôn giáo là một yếu tố quan trọng. Kể từ năm 2016 đến nay, sự ủng hộ của các tín hữu Tin Lành Mỹ dành cho ông Donald Trump vẫn không suy suyển. Riêng trong cuộc bầu cử vừa qua, theo  kết quả của một cuộc thăm dò được báo The Washington Post cho phổ biến liền sau cuộc bầu cử, đã có đến 56 phần trăm người công giáo Mỹ ủng hộ ông Trump(3). Nhìn chung, lá phiếu của các tín hữu Kitô là một trong những yếu tố quan trọng mang lại chiến thắng cho ông Trump.

Đa số các tín hữu Kitô Mỹ đã dồn phiếu cho ông Trump vì họ tin rằng ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn giống như một số nhân vật lịch sử của Do Thái Giáo. Chính ông cũng muốn cho người ta tin như thế. Trong một cuộc vận động bầu cử ở Florida sau khi bị ám sát hụt, ông Trump đã tuyên bố: “Nhiều người đã nói với tôi rằng Chúa đã để cho tôi tiếp tục sống là có lý do và lý do đó là để cứu lấy đất nước của chúng ta và khôi phục sự vĩ đại của nước Mỹ”. Và dĩ nhiên, nhiều tín hữu Kitô Mỹ hiểu ngầm rằng khôi phục sự vĩ đại của nước Mỹ cũng có nghĩa là khôi phục lại vị trí thượng tôn của Kitô giáo trong xã hội Mỹ.

Chỉ còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh. Với nhiều tín hữu Kitô Mỹ, khôi phục lại vị trí thượng tôn của Kitô giáo cũng có nghĩa là khôi phục lại lời cầu chúc “Merry Christmas”. Vào những ngày cuối của cuộc vận động bầu cử, ông Donald Trump đã hứa một điều, “Merry Christmas đang trở lại. Chúng ta sẽ có “Merry Christmas” như chúng ta đã từng có cho mọi người cách đây 7 năm khi chúng ta đã đem nó trở lại. Nó (lời cầu chúc này) đã gặp nguy hiểm sâu xa, (nhưng) chúng ta đã đem nó trở lại”(4).

Nhưng ông Trump đã mang lại thứ “Merry Christmas” nào? Trong suốt mấy mùa Giáng Sinh vừa qua, thông điệp ông gởi đi lúc nào cũng chứa những lời rủa sả đầy hằn học và hận thù dành cho các đối thủ chính trị của ông. “Christ” trong “Christmas” của ông là một “Christ” của kỳ thị và hận thù. Và hiện nay, qua những người mà ông đề cử vào các chức vụ quan trọng trong chính phủ sắp tới của ông, người ta cũng chỉ nghe được cùng một giọng điệu của  hận thù, kỳ thị và bất khoan nhượng.

Bước vào tháng 12, ánh sáng của lễ Giáng Sinh đã bắt đầu chiếu sáng trong cái khu xóm nhỏ của tôi. Tôi thấy có đủ mọi hình tượng như ông già Noel, cây thông, quà cáp và nhiều con thú khác. Nhưng tuyệt nhiên, tôi không thấy có hang đá, máng cỏ, Hài nhi Giêsu hay “Christ” nào cả. Nhưng tôi biết chắc một điều: ai cũng thấy rộn lên một niềm vui! Và tôi cũng tin chắc rằng đó là niềm vui vượt qua mọi hàng rào của kỳ thị, hận thù, bất khoan nhượng. Dù là tín hữu Kitô hay không, ai cũng xứng đáng hưởng niềm vui ấy. Vậy thì thay vì “Merry Christmas” với kỳ thị và thù hận, xin được cầu chúc mọi người “Happy Holidays!” (chúc những ngày nghỉ lễ hạnh phúc!)

Chu Văn

 

 Chú thích

1.John Thavis, The Vatican Diaries, Viking Penguin, 2013, trg 256

2. Yuval Noah Harari, Sapiens, a brief history of Humankind, Harvill Secker 2014, trg 240

3.La Croix International, US elections: Catholic voters supported Trump over Harris , November 5th, 2024

4.The Atlantic , The Christian case for Happy Holidays, December 2, 2024

 

 

 

x

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2024

Đám đông hoang dã

 

        Đám Đông Hoang Dã

                                                                                                 Chu Văn

Tôi vốn là một tên chết nhát, “ăn cỗ thì thích đi trước, lội nước thì chọn đi sau”, còn gặp khó khăn và nguy hiểm thì lại theo chiến thuật “tẩu vi thượng sách” cho nên tôi phục sát đất những người dám tách ra khỏi đám đông để lội ngược dòng. Trong nước đã và hiện có nhiều người như thế. Người ta gọi họ là những nhà bất đồng chính kiến. Bất chấp tù đày và ngay cả cái chết, họ đứng lên để tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ và những quyền tự do căn bản của con người. Nhưng “Tù nhân Lương tâm”, có lẽ là danh xưng xứng đáng nhứt nên được trao tặng cho họ. Bởi lẽ họ là những người chọn lương tri, lẽ phải và những giá trị đạo đức làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Và sở dĩ gọi họ là "tù nhân lương tâm" là vì dù đang sống trong hay ngoài nhà tù thì trước sau gì họ cũng bị...đi tù. 

Gần đây có một người mà tôi thực sự tâm phục khẩu phục là nhà báo Trương Huy San, người được biết đến nhiều hơn với bút hiệu Huy Đức hay Osin. Một số bạn bè và người quen của ông gọi ông là kẻ sĩ thời đại. Được biết năm 2012, ông được Đại học Harvard  bên Mỹ cấp học bổng để nghiên cứu về môn Chính trị và Công quyền. Chính trong thời gian sống tại Mỹ mà ông đã cho in và phát hành tác phẩm nổi tiếng “Bên Thắng Cuộc”. Đã từng là một bộ đội và phóng viên làm việc cho một số tờ báo quốc doanh, nhà báo Huy Đức đã có dịp tiếp cận với những sự kiện lịch sử kể từ sau năm 1975, nhứt là với các cấp lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Những thâm cung bí sử ấy được phơi bày một cách khách quan và trung thực trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”. Nhiều người Việt ở hải ngoại, sau khi đọc xong tác phẩm, đã bày tỏ lo ngại về số phận của ông, nếu ông trở về nước. “Ngày ấy, Huy Đức cũng được bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gợi ý và các luật sư chuyên ngành Di trú, Ngoại giao và Chính trị mà chúng tôi quen biết lâu ngày nêu ý kiến “ở lại hay về”...Nhưng Huy Đức đã khẳng khái trả lời dứt khoát: “Dạ, xin cám ơn mọi người. Tôi về lại quê hương” (1). Quả như nhiều người dự đoán, nhà báo Huy Đức đã bị bắt ngày 7 tháng Sáu vừa qua, với tội danh rất quen thuộc ở Việt Nam: “lợi dụng tự do, dân chủ”. Là một nhà báo nổi tiếng lại có “quan hệ tốt đẹp” với nhiều cấp lãnh đạo, Huy Đức đã có nhiều cơ hội để leo lên các bậc thang của quyền lực, danh vọng và giàu sang như rất nhiều đảng viên cộng sản hiện nay, nhưng ông đã tách ra khỏi đám đông và chọn đi “con đường ít được đi hơn” để nói lên tiếng nói của sự thật, của lương tri và lẽ phải.

Có một người khác mà tôi cũng thực tâm ngưỡng mộ và đã mang lại cho tôi một niềm cảm hứng sâu xa là khất sĩ Thích Minh Tuệ. Ông không phải là một nhà bất đồng chính kiến. Ông cũng chưa từng thuyết pháp và cũng chẳng bao giờ chiêu mộ tín đồ. Ông chỉ là một khất sĩ muốn “tập học” sống theo Đức Phật bằng cách thực hành “Hạnh Đầu Đà”, nghĩa là ngày ngày đi bộ, sống bằng thức ăn, nước uống do bá tánh trao tặng và tối lại vào nghĩa trang hay bất cứ nơi vắng vẻ nào để qua đêm. Mặc dù lúc nào cũng tuyên bố là một phật tử theo cách thế riêng của mình, tôi không có đủ quyết tâm và nghị lực để thực hành “Hạnh Đầu Đà” như khất sĩ Thích Minh Tuệ và mặc dù ông chưa bao giờ tự xưng là “sư” hay “thày” và lúc nào cũng một mực “con con” với mọi người, tôi vẫn tôn ông lên bậc “thày” của tôi. Ông là “thày” của tôi, bởi vì như Đức Phật đã dạy, ông chính là “ngón tay” chỉ cho tôi “con đường ít được đi”, nhưng đó lại là con đường giúp tôi có thể tìm gặp lại bản thân, bởi vì như “Nhà Đạo” của tôi cũng đã dạy “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”(2).

Trong một chế độ toàn trị nhìn đâu cũng thấy kẻ thù thì dĩ nhiên có muốn âm thầm bước đi từng bước nhỏ để quên mình cho đến cùng như “thày” Thích Minh Tuệ cũng đâu có được để yên. Sở dĩ chế độ này “ngứa mắt” và ngay cả lo sợ trước những bước chân trần đơn độc của “thày” là bởi vì, như một trong những tờ báo nổi tiếng ở Mỹ là tờ The Christian Science Monitor nhận định: “Mặc dù ông không rao giảng đạo đức, nhưng rất nhiều người coi ông là tấm gương sáng tuyệt vời, đặc biệt khi so sánh cuộc sống xa hoa của các quan chức. Người Việt đặc biệt lấy làm khó chịu trước hình ảnh thu được từ camera cảnh Bộ trưởng Công an (Tô Lâm) ăn món thịt bò dát vàng (giá gần 2000 Mỹ kim) tại một nhà hàng ở Luân Đôn cách đây ba năm” (3). Thì ra thế! Chính vì muốn kiểm soát toàn bộ tư tưởng của người dân và biến họ thành những con chó của Pavlov cho nên chế độ cộng sản rất sợ những ai dám bước ra khỏi đám đông để nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp lên án sự dối trá, độc ác và tham tàn của họ.

Những bước đi đơn độc và âm thầm của “thày” Thích Minh Tuệ không những là một bản cáo trạng dành cho chế độ độc tài cộng sản ở Việt Nam mà còn là một tấm gương phản chiếu hình ảnh của một đám đông bơ vơ lạc lõng, hoàn toàn mất phương hướng trong một chế độ từ hơn 70 năm qua đã đục khoét một lỗ hổng đạo đức không đáy trong xã hội. Chỉ cần đến những ngôi chùa lớn, với những tượng phật to của Giáo hội Phật Giáo quốc doanh do nhà nước kiểm soát và biến thành một công cụ để ru ngủ quần chúng, ai cũng có thể nhận diện được cái đám đông bơ vơ lạc lõng ấy. Bơ vơ lạc lõng khiến họ sẵn sàng dâng cúng tài sản, sụp lạy trước những lời xảo trá, ngây ngô đến độ ngu xuẩn của những cán bộ mặc áo cà sa.

Tôi đã từng sống trong chế độ cộng sản liền sau biến cố 1975. Dù chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng cũng đủ để hiểu được sự khủng bố của chế độ. Ít hay nhiều, ai cũng sợ! Và chính vì sợ hãi mà con người dễ biến thành một thứ cừu non dễ bị lèo lái, điều khiển và sai khiến. Tôi rất cảm thông trước cảnh người dân Bắc Hàn khóc thảm thiết trước sự ra đi của một lãnh tụ. Đó không chỉ là những giọt nước mắt cá sấu. Nói cho cùng, trong chế độ cộng sản, đám đông là nạn nhân đáng được cảm thông, thương hại hơn là lên án. Chính vì thế mà những ai dám bước ra khỏi đám đông để sống với con người thật của mình đáng được tôn vinh là kẻ sĩ hay bậc anh hùng.

Cảm thông và thương hại đối với cái đám đông bơ vơ lạc lõng trong cái lỗ hổng đạo đức do chế độ độc tài cộng sản đào khoét ở  Việt Nam, tôi lại không hiểu được tại sao trong một nước dân chủ và tự do như Hoa Kỳ lại cũng có một đám đông mà nhà báo Huy Đức đã gọi là “hoang dã”. Trong một bài viết trước khi bị bắt vài ngày, Huy Đức đã nhận định về việc cựu Tổng thống Donald Trump bị kết án về 34 tội danh ở New York: “Trump vừa vị bồi thẩm đoàn tuyên bố có tội với tất cả 34 tội danh. Như vậy là tên tội phạm này đã từng ngồi trên ghế tổng thống Mỹ một nhiệm kỳ và vẫn còn khả năng làm tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà khi những kẻ thô bạo và vô liêm sỉ nhất, chỉ vì quyền lực cá nhân, cũng có thể biến một nền dân chủ như nước Mỹ trở thành đám đông hoang dã” (4).

Cũng may cho Huy Đức. Nếu còn ở Mỹ mà dám viết như thế về cựu Tổng thống Trump thì có lẽ không những bị nhiều người Việt ở Mỹ ký tên vào thỉnh nguyện thư để yêu cầu Chính phủ Mỹ trục xuất mà chắc chắn còn bị đe dọa giết chết là khác. Còn nhớ khi đại dịch Covid bùng nổ và ông Trump còn làm tổng thống, ông đã đưa ra những lời tuyên bố lố bịch và ngu xuẩn không thể tưởng tượng được về đại dịch. Có một người Việt bất đồng chính kiến vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ là Mẹ Nấm đã “chơi dại” khi đưa ra lời kêu gọi: “Dịch bệnh nên đọc cảnh báo của các chuyên gia y tế đừng nghe lời lãnh đạo nha quý vị”. Đúng quá đi chớ! Vậy mà đã có trên 17 ngàn người Việt ở Mỹ  ký tên vào một thỉnh nguyện thư kêu gọi Chính phủ Mỹ trục xuất Mẹ Nấm về lại Việt Nam, bởi vì cô đã dám “xúc phạm” đến “tổng thống của chúng tôi” (5).

Trong một nước Mỹ, nơi tự do ngôn luận và phát biểu được xem là một trong những quyền cơ bản của con người và nhứt là khi người phát biểu chỉ nói lên sự thật, tôi không hiểu được tại sao vẫn có rất nhiều người vì tôn thờ và muốn bảo vệ lãnh tụ đã có thể hùa nhau để ăn tươi nuốt sống người khác như thế...Áp dụng thuật ngữ “đám đông hoang dã” cho đám đông ấy có lẽ cũng không quá đáng!

17 ngàn người ký tên lên án Mẹ Nấm để bênh vực cho những lời tuyên bố ngu xuẩn của một lãnh tụ quả là một số đông trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhưng nếu so với cái “đám đông hoang dã” đã và đang ăn thua đủ để tôn thờ người được Chúa “tuyển chọn” Donald Trump thì con số đó chẳng là bao. Ngay từ năm 2016, ông Trump đã hiện nguyên hình là một con người ngu dốt về mặt trí tuệ, đồi bại về đạo đức, đốn mạt về nhân cách, bại hoại về tâm lý...vậy mà có đến 80 phần trăm tín đồ Tin lành tại Mỹ đã bầu ông làm tổng thống. Cũng một tỷ lệ không suy suyển ấy đã dồn phiếu cho ông vào năm 2020. Và hiện nay, có lẽ cũng một tỷ lệ ấy vẫn muốn ông trở lại Tòa Bạch Ốc một lần nữa. Cái đám đông hoang dã ấy lại càng bày tỏ sự tin tưởng mãnh liệt hơn sau ngày ông Trump bị ám sát hụt hôm 13 tháng Bảy vừa qua. Họ tin tưởng rằng phải có bàn tay “quan phòng” của Chúa gìn giữ và che chở cho nên ông Trump mới thoát chết trong đường tơ kẽ tóc như thế. Bà vợ của người bạn thân của tôi, vốn là một người công giáo, cũng cho biết bà đã được xem một tấm hình trong đó có bóng cánh của một thiên thần che phủ phía sau ông Trump, nhờ vậy mà viên đạn đã chỉ xéo qua vành tai của ông chớ không đi xuyên qua đầu ông!

Cũng như trong suốt tám năm qua, cái đám đông hoang dã ấy tin rằng những lời “tiên tri” trong quyển Kinh Thánh của Do Thái Giáo đều đã được ứng nghiệm với ông Trump: ông chính là người được Chúa chọn để giải thoát cái nước Mỹ hiện đang bị Ma Quỷ mà hiện thân là cái đám dân chủ “thổ tả” đã và đang cố tình nhận chìm trong bóng tối của vô số tội ác (6).

Hai chữ “hoang dã” mà nhà báo Huy Đức đã sử dụng để nói về một đám đông không nhỏ người Mỹ đã và đang tôn thờ một tên gian manh vô đạo như Donald Trump như một giáo chủ, dĩ nhiên gợi lên trong tôi trước tiên hình ảnh của dã thú sống trong môi trường tự nhiên. Thú vật, nói chung, dù sống trong rừng rú hay được thuần hóa, chỉ sống theo bản năng. Chỉ có “con người, như tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã nhận xét, với tính “Người”, mới có hai đặc trưng là lương tâm và trí tuệ (được tượng trưng bởi Trái tim và khối óc, tức Tâm và Trí”). Theo ông, như lịch sử đã chứng tỏ, về lý thuyết cũng như thực hành, Chủ nghĩa Cộng sản không có hai yếu tố Tâm và Trí ấy. Do đó, ông khẳng định: “nếu là người thì chớ là người cộng sản, vì đó là cấp bậc thấp hơn so với Con người đúng nghĩa”.

Những người như nhà báo Huy Đức hay khất sĩ Thích Minh Tuệ, đã thực sự thể hiện đến cùng những đòi hỏi của hai yếu tố Tâm và Trí ấy. Tôi khâm phục và ngưỡng mộ họ bởi vì họ là ngọn đuốc chỉ đường cho tôi thấy thế nào mới thực sự là sống cho ra Người.

 

 Chú thích:

1. Trần Kiêm Đoàn, Osin Huy Đức bị bắt. Một sự chọn lựa của kẻ sĩ thời đại, baocalitoday.com 7/06/2024

2. Lời kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, lời Việt của Linh mục Kim long.

3. “A simple, selfless dissent for integrety”, The Christian Science Monitor, 24/7/2024, bản dịch của Trần Quốc Việt trên thongluan-rdp.org 3/8/2024.

4. Nguyễn Thị Sen, Nhà báo Huy Đức bị bắt, vietluan.com.au

5. Mẹ Nấm gây sóng gió trên mạng, báo Người Việt 5/4/2020.

6. Donald Trump assassination attempt triggers bizarre theory news.com.au  26/7/2024

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

“Về thu xếp lại”

 


 

Chu Văn

Tôi thích đọc những tản văn của một trong những tác giả nổi tiếng trong nước hiện nay là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, kiến thức khoa học lại uyên bác, tác giả viết về sức khỏe, bệnh tật, tuổi già và ngay cả cái chết với giọng điệu lúc nào cũng lạc quan. Cách đây vài năm, khi bước vào tuổi bát tuần, ông đã thu thập lại những bài viết về cũng những chủ đề trên dưới tựa đề “Về thu xếp lại”.

Từ vài năm nay, nhứt là khi bước vào tuổi 75 mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho là tuổi đẹp nhứt của đời người, tôi cũng đã bắt đầu “về thu xếp lại”. Từ nơi ăn chốn ở, vườn tược cho đến quần áo...tôi đã từ từ thu dọn lại cho gọn gàng hơn. Nhưng mới đây ý tưởng “về thu xếp lại” trong tôi đã trở nên mãnh liệt và thúc bách hơn sau vài lần thăm viếng một người bạn thân vừa trải qua một cuộc giải phẫu để lấy ra một khối u trong đầu. Cuộc giải phẫu tương đối thành công.

Tôi mừng cho bạn tôi và gia đình bạn tôi. Nhưng tôi mừng cho tôi nhiều hơn. Tôi mừng vì vẫn còn một người bạn tri kỷ theo đúng nghĩa. Chúng tôi có thể chia sẻ cho nhau về đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất. Ở tuổi già, tôi ngộ ra rằng có được một người bạn tâm giao là điều quan trọng nhứt. Có lúc tôi nghĩ: có được một người bạn thân trong tuổi già là có tất cả!

Những lần thăm viếng người bạn già vừa trải qua cơn bạo bệnh đã khiến tôi “về thu xếp lại” chuyện “bạn bè”. Trước kia, tôi rất thích giao du với nhiều người và cũng có rất nhiều “bạn bè”. Gặp nhau trong các bữa tiệc để chén chú chén anh là chuyện thường tình. Nhưng phải nói thẳng rằng kể từ ngày “có Trump”, cánh cửa xã hội của tôi từ từ khép lại, “bè” từ từ biến mất. Giữa đám đông “bè” nhiều hơn “bạn”, tôi cảm thấy tu chính án thứ nhứt của người Mỹ hoàn toàn không có giá trị đối với tôi nữa. Trước kia, giữa đám đông, tôi thấy mình vui vẻ, hoạt náo tự do ngôn luận” bao nhiêu thì nay tôi lại càng thấy giá trị của châm ngôn “thinh lặng là vàng” tốt hơn bao giờ hết.  Một chút sa sẩy trong một phát biểu về “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” cũng đủ để ăn miểng, nhứt là từ những người đồng đạo của tôi. Kể từ đó, sinh hoạt xã hội của tôi ngày càng thu hẹp lại. “Lời mẹ dặn” chọn bạn mà chơi được tôi triệt để áp dụng. Ở tuổi già, tôi thấy mình may mắn hơn nhiều người, vì tôi vẫn còn một vài người bạn tâm giao.

Song song với việc vun vén tình bạn, tôi cũng thấy mình đang “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo của tôi.  Thật ra, “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo không phải là chuyện ngẫu hứng tôi chỉ mới có sau những lần thăm viếng người bạn thân vừa trải qua cuộc giải phẫu, mà là chuyện trăn trở mỗi ngày của tôi. Nhưng có lẽ qua những lần thăm hỏi với hiền thê của bạn tôi mà tôi thấy ý nghĩ “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo trở nên thúc bách hơn trong tôi. Thật vậy, trước và sau cuộc giải phẫu của bạn tôi, người vợ hiền của ông, vốn là một phụ nữ rất mực đạo đức, lúc nào cũng nói đến sức mạnh của niềm tin tôn giáo, đặc biệt là hiệu năng của lời cầu nguyện. Trước cuộc giải phẫu, gặp bất cứ ai bà cũng xin cầu nguyện và sau cuộc giải phẫu thành công, bà xem đó như một phép lạ và không hết lời tạ ơn Chúa.

Từ nhiều năm nay, với những ai xin tôi cầu nguyện hay nói đến “phép lạ” của lời cầu nguyện, tôi thường giữ thái độ thinh lặng. Không hiểu từ lúc nào, câu hỏi mà nhà văn Mỹ gốc Do Thái Elie Wiesel (1928-2016), khôi nguyên của giải Nobel Hòa Bình năm 1986, đã từng đặt ra cho mình lúc bị giam trong một trại tập trung Đức quốc xã: “Thượng Đế ở đâu?” cũng chính là câu hỏi mà tôi thường tự đặt ra cho mình khi đứng trước bao nhiêu thảm kịch, đau khổ, chết chóc mà những người vô tội trên khắp thế giới đã và đang trải qua từng ngày từng giờ. Elie Wiesel đã nêu lên câu hỏi ấy khi chứng kiến cảnh những người lính Đức trong một trại tập trung Đức quốc xã treo cổ một thiếu niên. Với câu hỏi “Thượng Đế ở đâu?”, cuộc hành trình niềm tin tôn giáo của tôi không còn là một chuỗi những lời van xin “phép lạ”, mà là một cuộc tra vấn Thượng Đế. Cuộc sống đức tin rốt cục với tôi là một cuộc đối thoại không ngừng với Thượng Đế về chính nỗi khổ đau và cái chết trong kiếp người.

Tôi sinh ra trong một gia đình công giáo thuần thành. Mới ba ngày tuổi, chưa mở mắt và còn đỏ hỏn, tôi đã được ẵm tới nhà thờ để được rửa tội và đặt cho một cái “tên thánh” lạ hoắc lạ huơ. Ba tuổi, vừa bập bẹ biết nói, tôi đã  được dạy để học thuộc lòng bài giáo lý vỡ  lòng: con ai? – thưa con Chúa; cháu ai? – thưa cháu ông Adong và bà Evà; dòng dõi ai? – thưa dòng dõi vua David...Thế giới thần tiên tuổi thơ của tôi là thế giới của các thiên thần, của những người hùng trong sử thi của người Do Thái và dĩ nhiên cũng của người Tây phương da trắng. Chúa Giêsu và Đức Mẹ chẳng phải là người da trắng đó sao? Qua các hình tượng của Chúa Giêsu, ánh mắt trẻ thơ của tôi nhìn người da trắng nào cũng đẹp đẽ cả. Cả thể xác lẫn tinh thần! Nhớ có lần một nữ tu thày dạy tiểu học của tôi đã thốt lên khi nhìn những người lính đánh thuê “Lê dương” (légionaire): “Sao họ giống Chúa Giêsu quá!”. Có lẽ bà quên rằng chính mấy ông giống Chúa Giêsu này từng rượt những phụ nữ trong làng tôi chạy bán sống bán chết.

Tôi đã không chọn niềm tin tôn giáo. Chính cha mẹ tôi đã trao niềm tin tôn giáo cho tôi như một sản nghiệp quí giá. Mà quí giá thiệt. Lúc nào tôi cũng biết ơn cha mẹ tôi vì đã trao cho tôi một sản nghiệp quí giá, bởi nhờ sản nghiệp đó tôi đã làm quen và hấp thụ được nền văn minh Tây Phương và cũng chính sản nghiệp ấy đã hun đúc trong tôi một lý tưởng phục vụ cao đẹp cũng như giúp tôi rèn luyện nhân cách. Nhưng cùng với sản nghiệp cao quí đó là cả một gánh nặng của vô số tội ác mà chính tôn giáo của tôi đã gây ra trong suốt dòng lịch sử của mình. Trong hàng bao thế kỷ, tôn giáo của tôi đã sử dụng bạo lực để tiêu diệt người Do Thái với lý do họ là người “kẻ giết Chúa” vì đã đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Thời Trung Cổ, với những cuộc thập tự viễn chinh nhằm chiếm lại điều được gọi là “thành thánh Giêrusalem”, tôn giáo của tôi cũng đã sử dụng bạo lực để sát hại người Hồi giáo. Song song với những cuộc thập tự viễn chinh, tôn giáo của tôi cũng đã sử dụng tối đa bạo lực để loại trừ và ngay cả xử tử một cách tàn bạo những người bị cho là lạc giáo. Rồi sang Thế kỷ 16, kể từ sau cuộc Cải Cách của Tin Lành, tôn giáo của tôi lại dính vào không biết bao nhiêu cuộc chiến tương tàn giữa những người tự xưng là tín hữu Kitô, tức bạn hữu của Đấng mà cốt lõi của những lời giáo huấn chỉ xoay quanh sự khoan nhượng, tình yêu thương, sự cảm thông và lòng tha thứ và đã chết trên thập giá để thể hiện chính lời rao giảng ấy.

Mà có riêng gì Kitô giáo của tôi đâu. Dường như tôn giáo nào, ít hay nhiều và mãi cho đến ngày nay, cũng đều sa vào con đường bất khoan nhượng và bạo lực. Tựu trung, khi cái cốt lõi của tôn giáo, như ông bà ta thường nói: “đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành”, bị đẩy ra lề niềm tin tôn giáo thì đó chính là lúc tôn giáo chạy theo những phù phiếm, mê hoặc.

Xét cho cùng, bỏ qua một bên chủ trương bạo động, khủng bố, đấu tranh giai cấp và hận thù, Karl Marx cũng có lý phần nào khi ông lên án: “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”.

Có lẽ nắm vững chân lý “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng” cho nên các đệ tử của Karl Marx ở Việt Nam ngày nay đã dùng thứ thuốc phiện đó để ru ngủ quần chúng. Sau khi thu tóm và biến Phật Giáo thành một thứ tôn giáo “nhà nước” hay được gọi một cách nôm na là “quốc doanh”, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thành công trong việc sử dụng tôn giáo này để mê hoặc một bộ phận không nhỏ quần chúng Việt Nam hiện nay. Tôn giáo đã trở thành một thứ tà giáo, nhưng lại có sức thu hút và mê hoặc một đám đông không nhỏ. Tiến sĩ Chu Mộng Long, một tác giả thường xuất hiện trên báo điện tử Tiếng Dân trong nước, đã nhận định về hiện tượng nầy trong một bài viết có tựa đề “Tà giáo lộng hành”: “Có thể phòng chống tham nhũng chưa đạt được như mong muốn, nhưng dẫu sao, vẫn đang được nhà nước giải quyết bằng những vụ khởi tố ra tòa. Trong khi tà giáo thì lại được tự do hoành hành. Nó tự do đến mức, chỉ cần một cá nhân cạo trọc đầu là có thể ngang nhiên tuyên truyền mê tín dị đoan, công khai những thủ đoạn lừa đảo mà hàng triệu người là nạn nhân. Việc các tăng lữ dùng ma đe dọa dân, gieo rắc sự sợ hãi trong dân để thu gom tiền vàng, nhà đất và hứa hẹn “kiếp sau” cho dân làm ma giàu sang, phú quý, là lừa đảo trắng trợn, không thể biện minh”(1).

Khi cái cốt lõi của tôn giáo bị gạt ra bên lề niềm tin tôn giáo thì tôn giáo trở thành tà giáo để mê hoặc quần chúng. Bị cực đoan hóa hay đánh mất tính khoan nhượng vốn là cốt lõi của tôn giáo, con người cũng trở nên mê muội. Trong những ngày này, thế giới đang chú ý theo dõi cuộc tổng tuyển cử tại Ấn Độ, quốc gia được xem là có nền dân chủ lớn nhứt thế giới. Đảng đang cầm quyền tại nước này có tên là Đảng Quốc gia Ấn giáo (Bharatiya Janata Party gọi tắt là BJP) muốn biến Ấn giáo thành quốc giáo. Mahatma Gandhi đã dựa vào cốt lõi của tôn giáo này là sự khoan nhượng để đề ra chủ trương tranh đấu bất bạo động và thành công trong việc chấm dứt chế độ thực dân của người Anh tại nước này. Nhưng ngày nay, tinh thần khoan nhượng ấy đã nhường chỗ cho bạo lực chống lại các tôn giáo thiểu số, đặc biệt là người Hồi giáo.

Tại một quốc gia văn minh và tiến bộ nhứt thế giới hiện nay là Hoa Kỳ tôi cũng đang nhìn thấy sự trỗi dậy của một trào lưu bất khoan nhượng tôn giáo như thế. Cựu tổng thống Donald Trump là một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Về trí tuệ thì ngu dốt, về luân lý và đạo đức thì đồi bại, về tư cách thì đốn mạt, về tâm lý  thì bất ổn...Chỉ cần nghe những gì ông nói, cụ thể qua những lời cầu chúc sặc mùi hận thù vào những dịp lễ lớn của Kitô giáo cũng đủ để thấy tư cách của ông. Vậy mà năm 2016, người Mỹ đã bầu ông vào vị thế lãnh đạo quốc gia có nền dân chủ lâu đời nhứt thế giới cũng như lãnh đạo thế giới tự do. Chính lá phiếu của đa số tín hữu Tin Lành da trắng là yếu tố then chốt đã đưa ông lên cầm quyền. Ngày nay, mặc dù biết rõ, như trường hợp cựu Bộ trưởng Tư pháp Bill Barr, Donald Trump không có đủ tư cách để làm tổng thống, nhóm tín đồ Tin Lành da trắng này vẫn không tỏ ra suy suyển trong sự ủng hộ dành cho ông. Một thái độ như thế, nếu không gọi là mê muội, thì phải dùng tĩnh từ nào cho xác đáng hơn?

Mỗi khi suy nghĩ về những chế độ chuyên chế hay độc tài hiện hành hoặc có khuynh hướng trở thành độc tài, tôi vẫn cứ phải nhớ mãi lời của cụ Tản Đà: “Cũng bởi  thằng dân ngu quá lợn cho nên quân nó dễ làm quan”. Không biết có liên tưởng đến lời cụ Tản Đà không, một người bạn thời tỵ nạn của tôi và nay đang là một luật sư, vốn là một người ủng hộ ông Trump hết mình, đã nói như tát vào mặt tôi: “Bộ ông tưởng người Mỹ chúng tôi ngu cả sao?”

Gần đây, ở Úc Đại Lợi này, khi bàn về tình hình chính trị ở Mỹ, một người bạn trẻ, cũng đã nêu lên thắc mắc: “Có rất nhiều người Mỹ đang ủng hộ ông Trump, chẳng lẽ họ ngu cả sao!”.

Mỗi lần có ai đó biện luận như thế, tôi thường nghĩ đến hiện tượng Đức Quốc Xã của Adolf Hitler. Người dân Đức có ngu và mê muội không khi họ đưa Hitler lên cầm quyền để cai trị với bàn tay sắt và sát hại 6 triệu người Do Thái cũng như gây ra đau thương tang tóc cho cả thế giới?

Ngày 30 tháng Tư hằng năm, tôi cũng có một suy nghĩ tương tự. Đất nước có lâm  vào cuộc chiến huynh đệ  tương tàn và ngày nay đang bị cai trị bởi một lũ tham tàn độc ác, cũng bởi một nửa nước, trong đó cả một lớp trí thức khoa bảng, đã mê muội chạy theo những lời dụ dỗ của một tên điếm đàng. Một mình Hitler, một mình Hồ Chí Minh hay một mình bất cứ một nhà độc tài nào trên thế giới này...cũng không có đủ ba đầu sáu tay để gây ra tội ác, nếu không có một đám đông ngu muội tiếp tay.

Trong tiến trình “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo của tôi, tôi luôn cố gắng gạt bỏ hết lớp phấn phù phiếm dễ làm cho lòng người ra cực đoan và mê muội để chỉ chú tâm sống theo cái cốt lõi của tôn giáo là tình yêu thương, sự khoan nhượng, tính cảm thông và sự tha thứ. Tựu trung cái cốt lõi ấy được gói ghém trong hai chữ “Tử tế”. Tôi nghĩ có lẽ đã cắt xén và chắt lọc giáo huấn của Phật Giáo cho đến cùng cho nên trong một cuộc phỏng vấn dành cho một nhà thần học người Ba Tây cách đây khá lâu, khi được hỏi: “Theo ngài, tôn giáo nào là tôn giáo tốt nhứt?”, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng đã trả lời: “Tôn giáo nào giúp bạn trở thành tử tế đó là tôn giáo tốt nhứt”. Nữ minh tinh Kiều Chinh có ghi lại trong cuốn Hồi ký của bà rằng trong lần gặp gỡ đầu tiên với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ấn Độ dạo tháng Tư năm 2014, nhà lãnh đạo tôn giáo đã nói với bà: “I am just a simple monk. My religion is very simple, it is kindness” (tôi chỉ là một tu sĩ. Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó là sự tử tế)(2). Lời dạy thật đơn sơ, nhưng hẳn phải chất chứa một lẽ khôn ngoan thâm sâu. Khi con người cố gắng sống tử tế với mọi người, họ mới thật sự “sống đạo” và thoát ra khỏi sự ngu muội và u mê của mình.

 

 

 

 

Chú thích:

1. Chu Mộng Long, Tà giáo lộng hành, Thoibao.de, 26/04/2024

2. Kiều Chinh, Nghệ sĩ lưu vong, Hồi ký, Văn học Press 2021, trg 406