Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Xin cho hai chữ bình yên!

 

                                     


                                                                                

                                                                                        Chu Văn

 

Tôi đã từng “mê” nước Mỹ. Tôi đã đi Mỹ không biết bao nhiêu lần. Vậy mà, cứ mỗi lần liên lạc với nhau qua điện thoại hay email, những người thân của tôi cũng như một số bạn bè ở Mỹ luôn lập lại điệp khúc: “Sao không qua Mỹ chơi?” Có lúc “bực mình” quá tôi hỏi vặn lại: “Sao không qua Úc chơi?” Và lần nào câu trả lời cũng vẫn là: “Úc xa quá!”

Mới đây, khi cái điệp khúc “Sao không qua Mỹ chơi?” được lập lại, tôi đã trả lời một cách dứt khoát: “Sợ đi Mỹ lắm”. Mà tôi sợ thiệt! Cứ nhìn cái cảnh cảnh sát di trú ICE mặc thường phục, đeo mặt nạ, muốn bắt ai thì bắt, có tặng vé máy bay tôi cũng chẳng dám qua Mỹ “chơi” nữa. Nhứt là mới đây tôi lại càng sợ đến “nổi da gà” khi nghe ông Tom Homan, người được mệnh danh là “ông Trùm biên giới”, ra lệnh cho cảnh sát di trú bắt giữ bất kỳ người nào mà chỉ cần dựa vào “chỗ ở, công việc và diện mạo bên ngoài”(1).

Nếu đến Mỹ “chơi” mà lớ ngớ ra đường, tôi có thể bị bắt giữ ngay vì gương mặt của tôi. Thời thực dân Pháp, các bà cố tổ của tôi, nhờ co giò chạy kịp trong những cuộc bố ráp và rượt bắt của lính lê dương (légionaires), mà ngày nay những hậu duệ như tôi không lai đen và nhứt là chẳng có chút tóc vàng, sợi nhỏ nào, mà trái lại da vẫn vàng và mũi vẫn tẹt. Nếu đứng giữa những người châu Mỹ La tinh, có bảo tôi trông giống người thổ dân “Quechua” thì cũng chẳng ngoa lắm. Là người Á Châu hay giống người Châu Mỹ La Tinh, đàng nào tôi cũng có thể là điểm nhắm của cảnh sát di trú ICE của Mỹ cả!

Sự kiện cảnh sát ICE của Mỹ bố ráp và bắt giữ người một cách dễ dàng như thế gợi lại cho tôi những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản ở Việt Nam. Đi khỏi nơi cư trú của mình năm ba cây số mà không có giấy phép là bị chộp ngay. Cũng may thời đó, chỉ cần một tờ giấy đánh máy hay in ronéo cộng với một con dấu giả là xong ngay; thời đó công an làm gì có máy vi tính để mà truy tìm. Nhưng sợ nhứt là những lần bị gọi ra đồn công an để “làm việc”. Không tìm được bằng chứng thì người ta vẫn có thể đưa ra phán quyết: “anh không công khai, nhưng ngấm ngầm phản động”. Sợ là phải, bởi vì công an là Đức Chúa Trời có thể thông suốt “mọi sự trong ngoài” của ta!

Ngày nay chuyện xét hỏi hay bắt giữ như thế đã trở thành chuyện cổ tích ở Việt Nam. Cách đây hơn 15 năm, lần đầu tiên về thăm nhà, tôi run thấy rõ khi trình sổ thông hành ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Vừa về đến nhà, người nhà đã vội lấy sổ thông hành lên phường để xin đăng ký tạm trú cho tôi. Và dĩ nhiên, ra khỏi nhà tôi cứ phải nhìn trước ngó sau và gìn giữ từng lời ăn tiếng nói. Nay mọi sự đã thực sự “đổi mới”. Ra đường chẳng còn phải sợ công an bắt giữ hay chận lại xét hỏi nữa. Có sợ chăng là sợ ăn uống bị nhiễm độc hay ra đường bị xe tung mà thôi!

Nhìn về Việt Nam và trông qua Mỹ, tự nhiên tôi có ý nghĩ ngược đời: tình trạng an toàn cá nhân ở Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump nhiệm kỳ hai xem ra còn tệ hơn trong chế độ độc tài ở Việt Nam nhiều! Ngoài bạo động súng đạn khiến ở đâu cũng có thể bị chết oan, ra đường có thể bị bắt bất cứ lúc nào mà không sợ sao? Về Việt Nam tôi sợ ít, nhưng qua Mỹ tôi sợ nhiều hơn!

Cái nước Mỹ dưới thời ông Trump lúc nào cũng “Maga”, ở đâu cũng xưng là “vĩ đại”  quả thực lạ lùng quá! Dưới mắt của một người “sợ đi Mỹ” như tôi, Mỹ là một nước không có hòa bình!

Trong nhiều thập niên qua, các nhà nghiên cứu về hòa bình thế giới thường dựa vào những chỉ số như Chỉ số Hòa bình Thế giới (Global Peace Index) và Chỉ số Hòa bình Tích cực (Positive Peace Index) để đo lường sự ổn định và hài hòa xã hội của một quốc gia. Theo Chỉ số Hòa bình Tích cực, tức chỉ số về định chế và cơ cấu giúp phát triển và duy trì những xã hội hòa bình, Hoa Kỳ được xếp hạng thứ 27 trên 163 nước được khảo sát. Còn về Chỉ số Hòa bình Thế giới, tức chỉ số về tình trạng không có bạo lực và sự hiện diện của những yếu tố tích cực giúp phát triển hòa bình thì Hoa Kỳ đứng thứ 132 trong số 163 được khảo sát. Tuy nhiên, một cuộc nghiên cứu mới do Đại học Colombia và Viện Nghiên cứu Toyota thực hiện cho thấy những chỉ số về hòa bình trên đây thiếu một chiều kích cốt lõi của hòa bình: đó là cách những nhóm khác nhau trong xã hội đối xử với nhau.

Theo kết quả của những cuộc nghiên cứu về cách mà những nhóm khác nhau trong xã hội đối xử với nhau thì Hoa Kỳ gần như đứng cuối bảng, thua cả những nước như Bangladesh, Ghana và Tanzania. Đó là những quốc gia mà sự đo lường dựa trên các chỉ số về hòa bình thường cho là ít có hòa bình nhứt. Một cách cụ thể hơn, dựa trên những yếu tố như “sự khoan nhượng giữa các nhóm, sự tôn trọng, lòng tử tế, sự giúp đỡ hay nâng đỡ”, thì một lần nữa, bức tranh về hòa bình của Hoa Kỳ không mấy sáng sủa. Nếu dựa theo những yếu tố trên đây để đo lường thì Tân Tây Lan được 100 điểm, Singapore 98 điểm, còn Hoa Kỳ chỉ được 2 điểm, chỉ đứng trên Kenya, quốc gia mà có lẽ ông Donald Trump đã có lần gọi là “nước hố xí”. Một cách cụ thể, theo dữ liệu của các cơ quan truyền thông được các nhà nghiên cứu về hòa bình nhờ trí khôn nhân tạo phận tách và tổng hợp thì tình trạng xung đột, chia rẽ, kình chống giữa các nhóm như thế giới đang chứng kiến hiện nay cho thấy Hoa Kỳ không phải là một quốc gia thực sự có hòa bình (2).

Dựa vào tình trạng hài hòa xã hội để đánh giá thì rõ ràng Hoa Kỳ hiện không phải là một nước có hòa bình. Còn nếu dựa vào quan hệ quốc tế dưới thời ông Trump, Hoa Kỳ lại càng không phải là một nước có hòa bình hay yêu chuộng hòa bình. Trong bài diễn văn tuyên thệ nhiệm kỳ hai ngày 20 tháng Giêng, Tổng thống Trump tuyên bố rằng “di sản đáng hãnh diện nhứt” của ông là làm một tổng thống “xây dựng hòa bình”. Và cung cách xây dựng hòa bình của ông chính là dùng sức mạnh quân sự. Chỉ trong sáu tháng thôi, ông đã ra lệnh ném bom xuống rất nhiều nơi trên thế giới. Kể từ khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc, Hoa Kỳ đã ít nhứt thực hiện 529 cuộc ném bom xuống trên 240 nơi tại Phi Châu, Trung Đông và Trung Á trong khi đó trong suốt 4 năm cầm quyền, Tổng thống Joe Biden, người chưa từng xưng mình là “tổng thông xây dựng hòa bình” và cũng chưa một lần “đòi” được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình, ra lệnh ném bom xuống các nước không quá 560 lần(3). Trong cuộc vận động bầu cử, ông tố cáo Tổng thống Biden và ứng cử viên tổng thống Kamala Harris đang đưa Hoa Kỳ vào Đệ tam Thế chiến. Không kể cuộc không kích xuống Iran khiến cả thế giới phải một phen lên ruột, những cuộc dội bom của ông xuống một số nước ở Trung Đông và Phi Châu đã khiến cho không biết bao nhiêu thường dân thiệt mạng. Còn nhìn về cuộc xung đột hiện nay giữa Israel và tổ chức Hamas, nếu theo dõi trên trang mạng của Đài Al Jazeera, một cơ quan truyền thông thường được mệnh danh là Đài BBC ở Trung Đông, những ai còn có trái tim có lẽ không thể không thổn thức trước cảnh hằng ngày  Israel gây ra đói khát, chết chóc cho người dân Palestine ở Gaza. Không lay động nổi một ngón tay để chận đứng cuộc diệt chủng do đồ tể Netanyahu gây ra, vậy mà ông vẫn cứ “cằn nhằn” tại sao mình không được trao tặng Giải Nobel Hòa bình(4).

Tôi không biết rồi đây Ủy ban Nobel có quyết định trao Giải Nobel Hòa Bình cho ông Trump như đã từng trao giải thưởng cao quý này cho hai ông Henry Kissinger của Mỹ và Lê Đức Thọ của Việt Nam hồi năm 1973 không. Nhưng với cái nhìn của một người chỉ dùng cái “lẽ thường” (common sense) để mà suy xét, thì ông Trump không thể nào được xếp vào hàng ngũ những người yêu chuộng hay “xây dựng hòa bình”. Cứ nghe những gì ông nói, cách ông đối xử với người di dân và nhứt là những thông điệp ông gởi đi vào những dịp lễ tôn giáo hay quốc khánh của nước Mỹ, người ta chỉ nghe thấy một giọng hằn học đầy thù hận. Hãy thử nghe lại lời “hiệu triệu” của ông khi khai mạc ngày lễ Độc Lập 4 tháng Bảy 2025 vừa qua. Đây là nguyên văn lời ông nói về những người thuộc Đảng Dân Chủ: “Tôi thù họ”(5). Đây không phải là lần đầu tiên và duy nhứt ông bộc lộ sự thù hận đối với các đối thủ chính trị của ông. Trong suốt nhiệm kỳ một và từ sáu tháng qua, có thể nói: suốt ngày đêm, hận thù lúc nào cũng gậm nhấm tâm hồn ông. Thù hận và trả thù chính là linh hồn của sự cai trị của ông. Liệu một quốc gia đã bỏ phiếu để đưa một con người như thế lên làm nguyên thủ quốc gia có thể có hòa bình không?

Tôi sợ đi Mỹ chơi lắm. Nếu có đủ điều kiện và chọn lựa, tôi sẽ trở lại thăm Tân Tây Lan. Đây mới thực sự là một đất nước có hòa bình. Có lẽ người có công nhứt trong việc xây dựng hòa bình cho đất nước của mình chính là cựu Thủ tướng Jacinda Ardern, người lên cầm quyền khi chỉ mới 37 tuổi. Mới đây bà cho ra mắt cuốn hồi ký có tựa đề “A different kind of power” (một sức mạnh khác).  Theo phân tách của một số tác giả, một trong những bài học chính mà người ta có thể rút ra được từ quyển hồi ký của bà Ardern là: hãy biến việc “họ chống lại chúng ta” (them vs.us ) thành “chúng ta”. Thế giới đã thấy được cách hành xử của bà Ardern trong vụ khủng bố nhắm vào một đền thờ Hồi giáo tại Christchurch hồi năm 2019. Đến ngay hiện trường để an ủi các nạn nhân và thân nhân của họ, bà nói một câu để đời: “Họ là chúng ta” (they are us). Chính cử chỉ cảm thông và lời bộc bạch đó đã có sức thuyết phục dân chúng và các nhà lập pháp Tân Tây Lan ủng hộ việc kiểm soát súng ống, nhờ đó người ta không còn thấy xảy ra một vụ bạo động súng đạn nào nữa trên đất nước này.

Bài học quan trọng thứ hai được rút ra từ quyền hồi ký của bà Ardern là:  hãy làm một nhà lãnh đạo ngay trong gia đình bạn. Dù có ngồi ở đỉnh cao quyền lực, nhà lãnh đạo nào trước tiên cũng là một con người(6). Về điểm này thì người xưa đã có lý khi nói rằng muốn trị quốc hay bình thiên hạ thì hãy tu thân và tề gia trước đã. Xét cho cùng nếu không làm chủ được chính mình, nếu không thắng được cái tôi nhỏ nhen của mình, nếu không có sự an bình nội tâm thì những kẻ tự xưng là người yêu chuộng hay “xây dựng hòa bình” chỉ là những tên khoác lác.

 Chu Văn

1.Trump Border Czar Boasts ICE Can 'Briefly Detain' People Based On 'Physical Appearance'  David Moye, Huffpost July 11, 2025

2. Study: The U.S. May Be Much Less Peaceful Than We Think, Peter T. Coleman Ph. D Psycchology Today July 3, 20

3. Trump promised to be a “peacemeker’ president.He launched nearly as many airstrikes in five months as Biden did in four years, Alex Woodward, Alicia Hagoplan, The Independent  July, 16, 2025

4. All the times Trump complained about not getting a Nobel Peace Prize, Bess Levin, Vanityfair July 10, 2025

5. Trump kicks off celebration of America by declaring his hatred for democrats, Leigh Kimmins, Yahoo/News July 4.2025

 

6. What makes a good politician? Heather Rose Artushin LISW-CP, Psychology Today, June 30, 2025

 

 

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Chuyện người già


Hai đứa già rủ nhau đi làm di chúc
Thấy nhẹ nhàng khi đã soạn xong
thu gọn chuyện đời nhưng những chuyện trong tim...
thấy thương quá đứa nào còn ở lại

Thi Văn 7/2025
 

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

Thời vàng son của ngu xuẩn!

 


                                

                                                                                                                                                                        Chu  Văn

Nghe tin bà chị già ở Việt Nam đau nặng, tôi tức tốc về thăm và tiện thể nhìn lại những nơi đã từng in đậm những dấu chân tuổi thơ của mình.

Nhà chị tôi ở cách thị xã Nha Trang khoảng 40 cây số về hướng Tây. Trước năm 1975, nhứt là sau khi nền Đệ nhứt Cộng hòa cáo chung và hệ thống ấp chiến lược sụp đổ,  vùng này đã trở thành vùng oanh kích tự do: cứ mỗi buổi chiều, pháo binh từ quận Diên Khánh nã đại bác về vùng này và dĩ nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng hầu như không thể nào xâm nhập được vùng này. Đây là vùng cấm địa và cũng là tử địa. Chuyện các ông xã trưởng hay thôn trưởng nửa đêm bị dắt ra trước nhà để bị xử bắn hay chặt đầu không phải là điều hiếm khi xảy ra. Một ông quận trưởng đã bị thảm sát một cách dã man cũng trong vùng này: mới về nhậm chức, ông muốn đích thân đi thị sát trận địa; một cuộc phục kích giữa ban ngày đã khiến ông chết tại chỗ.

Trước năm 1975, chết vì bom đạn, chết vì hận thù là “chuyện thường ngày ở huyện” đối với người dân trong vùng này. Sau năm 1975, vùng này trở thành vùng “ kinh tế mới”. Gọi cho đúng tên thì đây là nơi đày đọa của các gia đình quân cán chính của chế độ cũ. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh công an đến xúc người dân thành phố lên xe tải, phát cho mỗi gia đình một vài tấm tôn, cộng với một ít gạo mốc và mắm muối rồi chở họ lên vùng rừng thiêng nước độc. Một số đã trốn về thành phố để tìm đường vượt biên. Một số tìm về thành phố để sống qua ngày với nghề bán buôn “chợ trời”. Số còn lại đành sống lây lất với đói khát và làm mồi cho không biết bao nhiêu bệnh tật, nhứt là sốt rét.

Phải đợi mãi cho đến thời kỳ “đổi mới” hay “mở cửa”, nhứt là với cơn sốt đất đai và khi bệnh sốt rét được chận đứng trong thập niên 1990, vùng này mới thực sự thay da đổi thịt. Ngày nay những “túp lều của chú Tom” không còn nữa. Thay vào đó là những ngôi nhà ngói khang trang. Ở đâu cũng có đường tráng nhựa. Trước kia, muốn đi từ Nha Trang lên Đà Lạt, phải vào Phan Rang đi Song Pha, leo lên đèo Ngoạn Mục, mất 4, 5 tiếng đồng hồ. Nay từ nhà chị tôi, chỉ cần băng qua một ngọn đèo mất chừng hơn 2 tiếng đồng hồ là tới Đà Lạt. Quán xá, nhứt là cà phê, mọc lên khắp nơi. Trước kia dân “thổ địa” của vùng này là người Thượng thuộc nhiều bộ lạc khác nhau. Nay có đốt đèn giữa ban ngày cũng không tìm đâu ra được một ngôi nhà sàn hay một cái chòi giữa núi rừng. Còn hình ảnh những người đàn ông đóng khố hoặc những người đàn bà mặc váy thổ cẩm, lưng mang gùi, trước ngực đèo một thơ nhi có lẽ chỉ còn trong tranh vẽ. Ngày nay người Thượng cũng đã có nhà cửa hẳn hoi, cũng có ruộng nương và nhứt là cũng sử dụng các phương tiện giao thông và truyền thông hiện đại như người Kinh.

Về thăm bà chị và đi một vòng trong  vùng trước kia là rừng thiêng nước độc, có lúc tôi cũng cảm thấy phấn khích như nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả của tập hồi ký nổi tiếng “Đêm giữa ban ngày”. Sau nhiều năm sống lưu vong ở Pháp, trở về Hà Nội và đi thăm một vài nơi, ông thốt lên: “Đúng là đất nước thay đổi rất nhiều. Mình đến đâu cũng nhận ra điều đó. Mừng quá”(1).

Quả thật, tôi cũng “mừng quá”! Đi nhiều nơi, tôi không còn nghe trẻ con hát nhại: “Cây cuốc cong mình mong cho cây cuốc gẫy. Cây cuốc gẫy thì mình khỏi ra đồng. Tổ quốc ơi, ăn khoai mì mãi mãi”. Ở đâu tôi cũng thấy em học sinh trung học nào cũng miệt mài chúi mũi vào màn ảnh của chiếc điện thoại cầm tay.

Nhưng cũng như nhà văn Vũ Thư Hiên, ở tuổi già, lúc nào tôi cũng mơ được trở về với “Miền thơ ấu” (2). Về thăm bà chị, tôi muốn tận mắt nhìn lại một địa danh nổi tiếng trong “miền thơ ấu” của tôi là Đồng Trăng, chỉ cách nhà chị tôi vài cây số. Trước năm 1975, đây là một đồn điền cao su khá lớn do một người Pháp làm chủ. Vợ ông là một người công giáo thuộc giáo xứ của tôi. Chính vì thế mà năm 1954, trước hiệp định Genève vài tháng, ông đã cho tổ chức một cuộc dã ngoại dành riêng cho một số người trong giáo xứ. Mẹ tôi đã dắt tôi theo. Năm đó tôi đã lên 8 tuổi. Lần đầu tiên trong đời tôi được chạy nhảy trong một vườn cao su, nghe những người công nhân làm việc trong đồn điền giải thích về cách cạo mủ và chế biến. Nhưng thú vị nhứt đối với tôi là được ra nhìn ngắm và bơi lội ngay ở thượng nguồn của Sông Cái nằm sát bên vườn cao su. Nước trong vắt. Bãi cát thì trinh nguyên. Xa bờ không bao nhiêu vẫn thấy được những con rái cá ngụp lặn đi săn mồi. Nay Đồng Trăng, như tên gọi đã có từ thời ông bà cố tổ của tôi, không hiểu sao đã biến thành “Đồng Trăn”. Đồng Trăng trong “miền thơ ấu” của tôi nay đã biến đổi tận gốc rễ. Đồn điển cao su đã biến mất. Thượng nguồn của Sông Cái giờ chỉ còn là một vũng bùn, với dòng nước đục ngầu, “lười” đến độ không còn muốn chảy. Bãi cát trinh nguyên nơi tôi đã từng  chạy nhảy giờ chỉ còn là một vũng bùn lầy và rác dọc theo bờ. Thượng nguồn mà còn ô nhiễm thì huống chi những khúc sông chạy dài ra tới biển Nha Trang. Tìm về tuổi thơ, tôi nói với các cháu muốn được ăn lại những loại cá nước ngọt mà tôi đã từng câu dọc theo Sông Cái. Nhưng các cháu tôi bảo rằng ngày nay ít còn ai dám ăn cá nước ngọt từ Sông Cái!

Lần theo thượng nguồn của Sông Cái, tôi được các cháu đưa đến những con suối tưởng là còn trinh nguyên. Nhưng tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh tượng đau lòng: hai bên bờ suối là cả một bãi rác đầy bao nhựa và các thứ lon bia và nước ngọt. Người dân vẫn nghĩ rằng đây là nơi họ có quyền được “vô tư” xả rác mà không hề có chút ý thức nào về hành động gây ô nhiễm môi trường của họ.

Ở một “vùng sâu vùng xa” như nơi chị tôi đang sống mà còn như vậy thì tại những khu dân cư đông đúc dọc theo bờ biển, tình trạng ô nhiễm còn bi đát hơn. Biết tôi thích câu cá, vài thanh niên gọi tôi bằng ông đã đưa tôi đến tận Cam Ranh, thuê một chiếc ghe máy và đưa ra khơi cách bờ đến cả chục cây số. Có lẽ đây là lúc tôi cảm thấy buồn hơn bao giờ hết khi nghĩ đến “đất nước” của mình. Suốt gần một ngày quăng câu giữa biển khơi mà chỉ bắt được vài con cá đổng bằng hai ngón tay. Tôi không buồn vì không câu được cá cho bằng cứ phải đưa mắt nhìn dòng hải lưu đầy rác rưởi trôi lềnh bềnh suốt ngày. Chiều đến, khi ghe vào gần bến là lúc thủy triều xuống, tôi cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy đủ các loại bao nhựa phủ kín bờ biển.

Những gì tôi tận mắt chứng kiến tại vùng quê của chị tôi cũng như tại một vùng biển nổi tiếng là Vịnh Cam Ranh có lẽ cũng đủ để vẽ lên bức tranh tổng thể về tình trạng ô  nhiễm tại Việt Nam hiện nay.

Năm 2024, hai đại học Yale và Columbia của Mỹ đã hợp tác với Diễn đàn Kinh tế Thế giới  để nghiên cứu và đưa ra một bản Chỉ số về Sức khỏe của Môi trường trên toàn thế giới (EPI: Environmental Performance Index). Theo Chỉ số này, Việt Nam đội sổ về tình trạng ô nhiễm trong 180 nước được khảo cứu, đứng sau cả hai nước Lào và Miến Điện. Riêng theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ô nhiễm không khí tại Việt Nam gây ra ít nhất 70.000 ca tử vong mỗi năm. Về nguồn nước uống, chỉ có khoảng 55 phần trăm dân thành phố có được nước sạch. Người dân nông thôn chủ yếu sử dụng nước từ mặt sông, suối, giếng nông và nước mưa là những nguồn dễ bị ô nhiễm(3).

Đúng như nhà văn Vũ Thư Hiên đã nhìn nhận “đất nước đã thay đổi rất nhiều”. Nhưng với tôi, “xe hơi, nhà lầu” và cuộc sống vật chất với nhiều tiện nghi hiện đại của người dân vẫn không che khuất được “tội ác” mà chế độ đang gây ra cho đất nước. Trong cuộc biểu tình chống Formosa gây ô nhiễm hồi năm 2017, tôi thấy một nhà trí thức nổi tiếng nước đã giương cao một tấm biểu ngữ với nội dung “FORMOSA, hủy diệt môi trường là tội ác” (4). Tôi vẫn còn nhớ: hồi năm 2007, Thủ tướng Kevin Rudd, nay là đại sứ Úc tại Mỹ, đã tuyên bố rằng khí hậu biến đổi là “thách thức đạo đức lớn nhứt của thế hệ chúng ta”(5). Thật thế, bảo vệ môi trường sống là một nghĩa vụ đạo đức của mọi người, nhứt là của các nhà lãnh đạo quốc gia và dĩ nhiên, hủy hoại môi trường sống do đó phải là một tội ác. Một trong những người cháu của tôi cho tôi biết rằng hiện nay rất nhiều người trong làng tôi đang bị ung thư. Tôi buồn lắm. Đây quả là một tội ác mà chế độ đang gây ra cho người dân.

Nếu hủy diệt môi trường là một tộc ác thì đằng sau tình trạng ô nhiễm của Việt Nam như Chỉ số về Sức khỏe Môi trường xếp hạng chính là sự xuống cấp đạo đức phải nói là không đáy của chính chế độ độc tài hiện nay. Biểu hiện tột cùng của sự xuống cấp đạo đức ấy chính là sự vô cảm đến độ không còn biết xấu hổ. Đồng lương chính thức của từ tổng bí thư đến mọi cấp bậc trong giới lãnh đạo thua cả tiền trợ cấp được chính phủ Úc dành cho một người già, vậy mà người nào cũng có biệt thự, biệt phủ, gởi con đi du học ở nước ngoài, ra ngoại quốc thì ăn những miếng thịt bò dát vàng giá đến gần 2 ngàn đô Mỹ, uống những chai rượu giá đến cả 15 ngàn đô...Thử hỏi có người nào trong giai cấp lãnh đạo còn biết xấu hổ về tình trạng tham nhũng không? Có người nào còn biết xấu hổ và hối hận vì “tội ác” họ đang gây ra cho môi trường sống khiến bao nhiêu người phải vong mạng vì bệnh tật do tình trạng ô nhiễm gây ra không?

Nhìn chung, nơi nào “giây thần kinh xấu hổ” của các nhà lãnh đạo quốc gia và các chính trị gia không còn hoạt động nữa thì nơi đó sẽ có bất công, bất ổn và xáo trộn. Đây cũng là tình trạng của một nước giàu có và văn minh như Hoa Kỳ hiện nay. Trong một bài viết về những xáo trộn gần đây tại Los Angeles, Tiểu bang California, giáo sư và nhà văn Nguyễn Thanh Việt, tác giả của quyển tiểu thuyết nổi tiếng “The Sympathizer” (cảm tình viên), đã tóm tắt về nhân cách của Tổng thống Donald Trump: “Ông ta không biết xấu hổ, không cảm thấy tội lỗi; ông ta hành xử thô bạo, tục tằn, chẳng hề có bất kỳ sự tiết chế nào” (6). Dĩ nhiên, Donald Trump không là người “đơn phương” trong sự vô liêm sỉ. Dưới chân ông có cả một đạo binh các chính khách Cộng Hòa còn đua nhau để tỏ ra vô liêm sỉ hơn ông. Họ là những người đã từng lên án, chửi rủa cái nhân cách tồi bại, bỉ ổi của ông để rồi liền sau đó đến quỳ gập dưới chân ông để, nói theo ngôn ngữ thô tục của chính ông “hôn vào đ...” ông (kiss his ass). Trong tiếng Việt có lẽ “thanh lịch” hơn, tôi nói: họ đã mửa ra những thứ tanh tưởi nhứt để rồi liền sau đó lè lưỡi liếm vào!

Tôi tin thuyết tiến hóa hơn tin Kinh Thánh hay Kinh Tin Kính của nhà đạo của tôi. Theo thuyết tiến hóa, giữa tôi và cậu chó nhà tôi có rất nhiều nét tương đồng. Chỉ có một điều khác biệt trời biển giữa tôi và cậu: cậu không hề biết xấu hổ, còn tôi mỗi khi làm điều sai trái, tôi luôn bị lương tâm cắn rứt và biết thế nào là xấu hổ.

Tôi đang “nghiền ngẫm” một cuốn sách có tựa đề “The psychology of stupidity” (tâm lý học về sự ngu xuẩn). Đây là bản dịch Anh ngữ của tác phẩm bằng tiếng Pháp của tác giả Jean Francois Marmion, một chuyên gia tâm lý nổi tiếng ở Pháp. Đóng góp vào tác phẩm còn có nhiều chuyên gia thuộc nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là tại Mỹ. Hình bìa của cuốn sách khiến tôi suy nghĩ nhiều: trong hình người ta thấy có 5 hình tượng, khởi đi từ một người đứng thẳng để rồi từ từ khom lưng và cuối cùng trở thành vượn! Đây quả là một thứ tiến hóa ngược: người biến thành vượn! Ngày nay trí khôn nhân tạo (AI) có thể đưa con người lên đến tuyệt đỉnh của thông minh. Nhưng điều tôi sợ nhứt là: biết đâu nó chẳng cắt đứt “giây thần kinh xấu hổ” trong não bộ của con người!

 

 Chú thích

1.Một buổi sáng với cụ Vũ Thư Hiên, báo Tiếng Dân, 11 -5-2025

2.Hồi ký về tuổi thơ tại một làng quê ở Thái Bình của Vũ Thư Hiên

3.Trở lại chuyện “ Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch”, VNTB 17.06.2025

4. bài đã dẫn

5. The morality of climate change, Christ Riedy . Medium Mar 4, 2014

6. Nguyễn Thanh Việt, “Fallujah bên bờ Thái Bình Dương: Cuộc trình diễn của Trump tại Los Angeles,  Tiếng Dân 18- 6- 2025

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Tôi là ai...

 

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Sự vĩ đại đích thực

 

                               


                                                                                                 

 

Năm 1995, nhân dịp tưởng niệm 20 năm biến cố 30 tháng Tư, nhạc sĩ du ca Phan Văn Hưng có sáng tác một ca khúc mang tựa đề “20 năm”. 20 năm là một giai đoạn khá dài trong một đời người. Mới đó mà “đàn trẻ thơ nay đã lớn và chàng trai nay đã già”. Nhưng người nhạc sĩ dường như muốn nói với chúng ta rằng thời gian như ngừng trôi. Cuộc sống xem ra vẫn dậm chân tại chỗ kể từ sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Bởi lẽ “Hai mươi năm (rồi mà vẫn còn) người cụt chân trên hè phố. Kẻ quyền uy trong căn nhà, người nằm rên trong hộ xá”. Vẫn còn cái cảnh “nhiều kẻ gian trong làng xóm, người hiền khô mang gông cùm, kẻ mộng du lên bạo chúa, người ngồi khóc trên sân chùa”. Hay “triệu người đi trong cuộc sống, mà thể xác như không hồn. Triệu người vui trong xa hoa. Triệu người lao trong cùng khốn và buồn vui như bao lần”.

Nay sắp đến kỷ niệm 50 năm biến cố 30 tháng Tư. Nếu nhạc sĩ Phan Văn Hưng sửa lại câu mở đầu thành: “Năm mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã là ông là bà” thì bức tranh vẫn còn nguyên như cũ.

Với tôi, 50 năm cũng vẫn là một cơn ác mộng dài. Cái chế độ mà tôi đã trốn chạy cách nay hơn 40 năm dù có thay da đổi thịt, cái chủ nghĩa vô nhân đạo được áp đặt lên dân tộc tôi dù có bị chôn vùi trong đống rác của lịch sử, những người vẫn tiếp tục vỗ ngực tự xưng là “cộng sản” dù chẳng còn tin hay biết gì về chủ nghĩa ấy...tất cả vẫn đều như cũ! Cái linh hồn của chế độ đó là dối trá, tham tàn, độc ác vẫn còn nguyên vẹn! Và tôi, một người tỵ nạn cộng sản, vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn. Tôi xem hơn năm năm sống dưới chế độ cộng sản và nhứt là cuộc vượt biên đem cuộc sống ra cá cược để đổi lấy hai chữ tự do như một thứ vốn quý giá nhứt trong cuộc đời.

Tôi đã chọn Úc Đại Lợi làm quê hương thứ hai và hình như quê hương thứ hai này lúc nào cũng nhắc nhở tôi về tư cách tỵ nạn của tôi. Thật vậy, trong câu chuyện trao đổi với tôi, hầu như người dân Úc nào, dù thuộc sắc tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, cũng đều có lúc hỏi tôi: gốc gác của ông người nước nào? Và dĩ nhiên tôi được dịp lên giọng “sáu câu” về địa lý, về lịch sử của đất nước tôi và nhứt là hãnh diện “tuyên xưng” rằng tôi đã từng là một “thuyền nhân” và vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản.

Tôi có nghe nói đến sự độc ác của những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng bên Trung Hoa hay Nero của Đế quốc La Mã. Tôi không thể hình dung được sự độc ác của những bạo chúa ấy. Nhưng sự tàn bạo dã man ngoài sức tưởng tượng của tôi mà Đức quốc xã và bạo chúa Adolf Hitler đã để lại trong lịch sử nhân loại thì tôi tin như kinh “tin kính” trong nhà đạo của tôi. Bởi lẽ vô số những nạn nhân đã từng sống sót trở về từ những trại tập trung hay lò sát sinh mà Hitler đã cho dựng lên khắp Âu châu đã là những nhân chứng sống động về sự độc ác ấy.

Chỉ có những con người không có trái tim mới chối bỏ điều đó. Tôi không thể tưởng tượng được người giàu có nhứt hành tinh hiện nay là Elon Musk đã có thể ngang nhiên chối bỏ tội ác của Hitler. Ông khẳng định rằng Hitler không hề giết 6 triệu người Do Thái. Không riêng Hitler, mà ngay cả những bạo chúa của các chế độ cộng sản như Stalin và Mao Trạch Đông cũng đều được Musk “xá giải” hết. Mọi tội ác đều được trút lên đầu các cộng sự viên của các bạo chúa này (1).

Đã có vô số những nạn nhân sống sót từ các trại tập trung của Đức quốc xã đã làm chứng về tội ác của Hitler. Và dĩ nhiên cũng  đã và đang có vô số những nạn nhân của các chế độ cộng sản làm chứng về tội ác của cộng sản. Tôi hãnh diện được mãi mãi làm một chứng nhân như thế. Hitler đã chết. Đức Quốc xã cũng đã chết. Nhưng chế độ cộng sản mà tôi đã trốn thoát vẫn còn đó. Tôi muốn được mãi mãi làm một người tỵ nạn để làm chứng về tội ác của chế độ đó. Nhưng chứng từ của tôi trước tiên phải là một bài học nhớ đời cho chính bản thân tôi. Người ta thường gán cho triết gia, thi sĩ Tây Ban Nha, ông George Santayana (1863-1952) câu nói: “Những ai quên lịch sử sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật ra câu nói đúng của ông là “những ai không thể nhớ quá khứ sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật thế, có biết bao nhiêu người, trong đó có rất nhiều người Việt Nam đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đã từng vượt biên và được Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc nhìn nhận như một người tỵ nạn, nay “qua cầu rút ván”,  quay lưng lại quá khứ để tôn thờ những lãnh tụ sặc mùi kỳ thị, miệt thị và khước từ những người đồng loại đang lâm vào cùng một cảnh ngộ như mình trước kia.

Tôi tự nhủ sẽ mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản để không bao giờ quên quá khứ và như thế để không ngừng chiến đấu chống lại trong chính bản thân tôi những khuynh hướng thấp hèn nhứt trong con người là dối trá, kỳ thị, hận thù, tham tàn và độc ác.

Sắp bước vào tuổi bát tuần, tôi cảm thấy như bị bỏ lại đàng sau trong đà tiến nhanh đến chóng mặt của thế giới ngày nay. Trong phần mở đầu của biên khảo có tựa đề “Homo Deus: A brief History of Tomorrow” (Tạm dịch: Con người sẽ trở thành Thượng Đế: một lịch sử ngắn của ngày mai), sử gia Yuval Noah Harari đã nói đến hai bước tiến bộ vượt bực của nhân loại: một là chiến thắng trên sự chết, hai là loại trừ được chiến tranh! Theo ông, y khoa đang tiến tới một giai đoạn chắc chắn trong đó tất cả các cơ phận con người đều có thể “tái sinh” để giúp con người có thể sống mãi. Dĩ nhiên, con người không trở thành bất tử (immortal), bởi vì tai nạn hay ý muốn chết vẫn có thể cướp đi mạng sống con người, nhưng sống mãi (amortal) là điều nằm trong khả năng của con người. Về chiến tranh, ông cho rằng thế giới sẽ không bao giờ có thế chiến thứ ba nữa. Mặc cho Bắc Hàn có điên khùng đến đâu, mặc cho Nga có nhiều lần mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa, ai cũng biết rằng mó tay vào thứ vũ khí này, cả thế giới đều ra tro.

Về những tiến bộ vượt bực của thế giới ngày nay, tỷ phú Bill Gates, đồng sáng lập viên của công ty Microsoft mới đây đã tiên báo rằng chỉ trong 10 năm nữa, trí khôn nhân tạo (AI) sẽ thay thế con người trong hầu hết mọi sự. Cụ thể, sẽ đến lúc thế giới sẽ chẳng cần bác sĩ và thày giáo nữa, bởi vì trí khôn nhân tạo sẽ làm việc trong lãnh vực y tế và giáo dục một cách hiệu quả hơn (2).

Tôi không biết mình có sống tới ngày đó để tận mắt nhìn thấy những tiến bộ như thế không. Tôi chỉ biết chắc có một điều: trí khôn nhân tạo đã mở tung hộp Pandora ra và loài sâu bọ khủng khiếp nhứt trong trái tim con người là sự dối trá hiện đang lan tràn khắp thế giới. Có lẽ chưa bao giờ con người dễ nói dối, dễ tin những lời dối trá và cũng dễ phát tán những lời dối trá cho bằng ngày nay.

Trong các chế độ độc tài, mọi lối dẫn vào sự thật đều bị bưng bít. Người dân trong các chế độ đó chỉ nhận được thông tin một chiều cho nên không thể kiểm chứng được những gì họ nghe. Cách đây 2 năm, khi về thăm nhà, tôi nhận thấy cuộc sống của những người bà con thân thuộc của tôi có phần khá giả hơn trước kia nhiều. Nhiều người đã xây nhà mới. Có người cũng có xe hơi. Còn những phương tiện truyền thông như Iphone, Smartphone...thì quả thật “chạy đầy đường”. Và điều khiến tôi lo ngại nhứt là khi cầm những phương tiện đó trên tay và chúi mũi vào đó hầu như từng phút từng giây, ai cũng nghĩ rằng mình thông biết mọi sự trên đời. Nhưng hầu như mọi thứ “thông tin” mà họ nhận được và hăng say quảng bá đều là những tin giả và thuyết âm mưu. Tác động của trí khôn nhân tạo, mà cụ thể là qua các mạng lưới thông tin toàn cầu có lẽ một phần đã củng cố cho các chế độ độc tài và một cách nào đó tạo điều kiện cho tin giả, các thuyết âm mưu và sự dối trá đầu độc người dân trong các chế độ độc tài.

Nhưng con sâu dối trá mà hộp Pandora đã tung ra khắp mặt đất không chỉ đục khoét đầu óc của người dân trong các chế độ độc tài. Trong một quốc gia dân chủ và văn minh nhứt thế giới như Hoa Kỳ, con sâu dối trá hiện đang phá nát đất nước này và làm đảo điên khắp thế giới.

Kể từ khi ông Donald Trump xuất hiện trong chính trường Mỹ, nghe những gì ông nói, nhứt là khi nổ ra đại dịch Covid-19 và những phát biểu của ông về địa lý và chính trị thế giới, những cộng tác viên thân cận nhứt của ông trong nhiệm kỳ đầu thường hay dùng từ “đần độn” (moron) để nói về sự hiểu biết và trí thông minh của ông. Một tờ báo bảo thủ như The Wall Street Journal, trong bài xã luận viết về cuộc chiến thuế quan của ông, cũng đã gọi đây là “cuộc chiến thương mại ngu xuẩn nhứt trong lịch sử”(3). Tôi vẫn thử cố gắng “làm trạng sư của quỷ” để bênh vực cho những chính sách và đường lối của ông: Là “con nhà trời”, là “thiên sứ” được Thượng Đế sai đến cho nên cũng như Thượng Đế, ông có lối suy nghĩ, cách tính toán và những chính sách “cao siêu” mà trí khôn của một người phàm như tôi không thể nào hiểu thấu được. Một số bạn bè của tôi ở Úc này, vốn là những người tôn thờ ông, đã khuyên tôi phải kiên nhẫn chờ đợi 4 năm nữa mới thấy được kết quả của những chính sách của ông. Tôi đang tập kiên nhẫn để tạm tin như thế. Chỉ có điều tôn thờ ông thì không, dù ông có là ông trời con đi nữa. Làm sao tôi có thể sùng bái hay suy tôn một người có một nhân cách tồi tệ như ông. Mà tồi tệ nhứt trong nhân cách đó chính là sự lọc lừa dối trá. Theo sự kiểm chứng của báo The Washington Post, trong 4 năm nhiệm kỳ đầu của ông, ông đã nói dối hơn 30 ngàn lần, nghĩa là trung bình mỗi ngày ông nói dối hơn 50 lần. Không cần phải kiểm chứng, bất cứ ai còn biết tôn trọng lẽ phải và có chút lương tri cũng đều nhìn thấy việc phủ nhận kết quả bầu cử và xúi dục bạo loạn hồi năm 2020 là một lời dối trá mà chỉ có một tên lưu manh như ông mới có đủ trơ trẽn để làm. Rồi mới đây, mặc cho đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã lên án hành động xâm lược Ukraine của Nga, ông đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết, nghĩa là chối bỏ sự thật và bênh vực hành động tàn ác của Nga. Đó là chưa kể việc ông lật lọng đến độ lên án Ukraine là nước gây ra chiến tranh và gọi nguyên thủ của nước này là một nhà độc tài.

Người dân Mỹ đã bầu một tên dối trá như thế lên làm tổng thống. Sự dối trá đã trở thành chuẩn mực cho cuộc sống và cứu cánh biện minh cho phương tiện là phương châm hành động. Không cần biết Donald Trump có dối trá và nhân cách có tồi tệ đến đâu miễn là ông “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.

Cứ mỗi lần nghe hai chữ “vĩ đại”, tôi lại nhớ đến một người bạn dạy Anh văn trung học đệ nhị cấp trước năm 1975. Sau 30 tháng Tư, anh được lưu dụng một thời gian. Anh kể lại: trong một giờ học, anh hỏi các em học sinh phải dịch hai chữ “vĩ đại” như thế nào sang Anh ngữ. Một em đã hớn hở nói lớn: “Thưa thày, vĩ đại dịch sang tiếng Anh là “enormous”. Anh bảo: anh phá lên cười và nghĩ bụng, nếu áp dụng từ Anh ngữ này cho con người đang được suy tôn là “vĩ đại” thì thật là “khủng khiếp”.

Nghĩ đến hai chữ “vĩ đại”, tôi cũng  liên tưởng đến một đoạn trong phim “Chuyện tử tế” được đạo diễn Trần văn Thủy thực hiện năm 1985. Nhà làm phim có hỏi một đám trẻ con nghĩ gì về hai chữ “vĩ đại”. Một em nói: “vĩ đại” thì chúng cháu có nghe nói, nhưng chưa từng thấy.

Thật vậy, sự vĩ đại đích thực không nằm trong sức mạnh kinh tế hay quân sự, mà chỉ được nhìn thấy trong tâm hồn hay tư cách của một con người. Văn hào Victor Hugo, người đã đề cao sự nhẫn nhục hy sinh và thương người của người gù Quasimodo trong quyển tiểu thuyết “Người gù nhà thờ Đức Bà Paris”, đã nói: “Có một quang cảnh vĩ đại hơn đại dương, đó là bầu trời. Có một quang cảnh vĩ đại hơn bầu trời, đó là tâm hồn con người” Điều này hoàn toàn đúng với danh hiệu “Mahatma” (vĩ đại) mà người dân Ấn Độ đã truy tặng cho Gandhi, người đã giành được độc lập cho Ấn Độ mà không cần một vũ khí nào khác hơn là chủ trương “Satyàgraha” nghĩa là “kiên trì trong sự thật”. Quả thật, như Chúa Giêsu đã dạy “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người”. Trong thế giới đang đảo điên vì dối trá, có lẽ chỉ có những ai dám sống chết và lên tiếng cho sự thật, người đó mới thật sự được giải phóng và trở thành  “vĩ đại”.

Chu Văn Tháng Tư 2025

 

Chú thích

1.Jordan Liles ,Fach Check: Musk reposted post that said “Stalin, Mao and Hiler didn’t murder millions of people Yahoo news  March 15, 2025

2.Ariel Zilbar, Bill Gates: AI replace major jobs within 10 years, humans won’t be needed “for most things” New York Post March 29, 2025

3.Edward Helmore, Wall Street Journal editorial calls Trump tariffs “dumbest trade war in history” 3 Feb 2025

 

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

Tương lai thuộc về lòng nhân ái


                    


                                                                  Chu Văn

Trong bài diễn văn nhậm chức hôm 20 tháng Giêng vừa qua, Tổng thống Donald Trump tuyên bố rằng ngày hôm đó  là “Ngày Giải Phóng”. Một ký giả người Việt tại California nói rằng hai chữ “giải phóng” nghe “quen quen”. Người Việt Nam nào đã từng chứng kiến ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Miền Bắc và sống dưới chế độ cộng sản dù chỉ vài ngày thôi cũng đều thấm thía hiểu được thế nào là “giải phóng”.

Riêng tôi, khi đọc lại bài diễn văn của Tổng thống Trump, tôi đặc biệt chú ý đến “phép lạ” ông thoát khỏi một cuộc mưu sát. Ông nói: “Trên cánh đồng xinh đẹp ở Pennsylvania vài tháng trước, viên đạn của một sát thủ đã xuyên qua tai tôi. Nhưng ngay cả khi đó và bây giờ, tôi đều tin rằng mình đã thoát chết là có lý do. Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Lời tuyên bố này, tôi cũng nghe “quen quen”. Cách đây hơn 90 năm, Adolf Hitler cũng đã từng tuyên xưng một niềm tin như thế vào Chúa.

Ngày 30 tháng Giêng năm 1933, Tổng thống Đức Paul von Hinderburg đã chọn lãnh tụ của Đảng Quốc xã là Adolf Hitler làm thủ tướng. Không đầy một tháng sau đó, không rõ do nguyên nhân nào, tòa nhà Quốc Hội bị cháy. Hitler đã nhân cơ hội này thuyết phục Tổng thống Hindenburg ban hành Sắc lệnh Bảo vệ Người dân và Quốc gia. “Sắc lệnh này xóa bỏ các quyền tự do cơ bản, bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí. Nó cũng cho phép chính phủ giam giữ bất kỳ ai mà không cần xét xử”(1). Một tháng sau đó, dưới quyền kiểm soát của Hitler, quốc hội bù nhìn đã thông qua một đạo luật cho phép Hitler ban hành bất cứ luật nào mà không cần sự chuẩn thuận của Hạ Viện. Hitler đã thu tóm mọi quyền lực trong tay và nước Đức đã hoàn toàn nằm dưới chế độ độc tài. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, ký ức tập thể của nhân loại sẽ không bao giờ phai mờ. Nếu cần đặt tên cho cái Ác, có lẽ không có tên gọi nào chính xác hơn là Adolf Hitler!

Năm năm sau khi nắm quyền sinh sát trong tay, tức năm 1938, Hitler đã đưa quân sang chiếm Áo Quốc và sát nhập vào Đế chế Đức. Người con của Áo Quốc đã huênh hoang trở về thăm quê cha đất tổ. Trong một bài diễn văn đọc tại Thủ đô Vienna, là một tín đồ công giáo, Hitler đã nói đến bàn tay “Quan Phòng” của Chúa trong sự nghiệp chính trị của ông như sau: “Tôi tin rằng chính Chúa đã muốn gởi một người con (của Áo Quốc) qua Đế chế Đức, để nó lớn lên và cất nhắc nó thành nhà  lãnh đạo quốc gia và đưa quê hương trở lại với Đế chế”(2).

Tháng Mười Một năm 1939, Hitler đến thăm câu lạc bộ bia Burgerbraukeller, trong Thành phố Munich. Đây là nơi mà năm 1925 Hitler đã loan báo thành lập Đức Quốc Xã. Trong chuyến viếng thăm nói trên, ông đã thoát khỏi một cuộc mưu sát trong đường tơ kẽ tóc. Hãy nghe người được Chúa “tuyển chọn” một lần nữa xác quyết về bàn tay “Quan phòng” của Chúa trong cuộc mưu sát này: “Giờ đây tôi hoàn toàn tin tưởng. Sự kiện tôi rời khỏi Burgerbraukeller sớm hơn thường lệ đã củng cố niềm tin (của tôi) về ý định của Chúa Quan Phòng muốn tôi đạt được mục đích của tôi” (3).

Mục đích của Hitler là gì?  Ngoài tham vọng muốn làm bá chủ Âu Châu và ngay cả thế giới, “mục đích” của Hitler chính là tiêu diệt người Do Thái. Ngay từ năm 1923, ông đã khẳng định: “Điều đầu tiên phải làm là cứu nước Đức khỏi tay người Do Thái là những kẻ đang cai trị đất nước chúng ta...Chúng tôi không muốn để cho nước Đức phải chịu chết trên thập giá như Đấng Kia (tức Đức Giêsu)”(4). Theo đúng truyền thống Kitô giáo, cách riêng Công giáo vào thời đó, Hitler thù ghét người Do Thái vì xem họ như những kẻ “giết Chúa”. Mãi cho đến cuối năm 1941, nghĩa là sau khi đề ra điều thường được gọi là “Giải pháp cuối cùng”, tức chương trình tiêu diệt 6 triệu người Do Thái tại 21 quốc gia ở Âu Châu, Hitler vẫn còn tâm sự với người phụ tá thân cận của mình là tướng Gerhard Engel: “Tôi vẫn mãi mãi là một người công giáo” (5). Không những Hitler tự nhận mình là một người công giáo, mà rất nhiều người công giáo Đức cũng tin tưởng rằng ông là một người công giáo thuần thành. Ngay cả Hồng y Michael Faulhaber, Tổng giám mục Munich, sau cuộc mưu sát Hitler tại Burgerbraukeller, cũng đã cho tập họp giáo dân lại trong nhà thờ chính tòa của giáo phận để hát bài ca Te Deum (tạ ơn Chúa) vì đã che chở lãnh tụ kính yêu của Đức!

Sáu triệu người Do Thái đã bị bàn sát một cách dã man trong các trại tập trung và lò sát sinh trên khắp Âu Châu. Hitler, dù có độc ác đến đâu, cũng không có đủ năm đầu sáu tay để phạm một tội ác khủng khiếp như thế. Đã có vô số người Đức đã tích cực tham gia vào tội ác hoặc thinh lặng đồng lõa trước tội ác. Tất cả đều bị cuốn hút vào một trào lưu chung là bài Do Thái mà thiết yếu vẫn là “niềm tin tôn giáo” theo đó người Do Thái là “bọn giết Chúa” đáng bị thù ghét và tiêu diệt. Không chỉ người công giáo mà ngay cả nhà Cải Cách Tin Lành Martin Luther cũng đã từng viết một quyển sách trong đó ông gọi người Do Thái là “loài rắn lục” cần phải bị loại trừ ra khỏi nước Đức. Có thể Hitler đã lợi dụng trào lưu bài Do Thái ấy để phạm tội ác. Nhưng căn cứ trên những lời tuyên bố và “tuyên xưng” của ông có lẽ không ngoa để bảo rằng ông đã nhân danh Kitô giáo để phạm tội ác!

Sở dĩ tôi liên tưởng đến Hitler khi nghe Tổng thống Trump khẳng định “Chúa đã cứu tôi để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” là bởi vì có lẽ hơn bất cứ vị tổng thống Mỹ nào khác, ông không ngừng “tuyên xưng” niềm tin tôn giáo và cam kết “tranh đấu” để “bảo vệ” Kitô giáo tại Mỹ. Trong cuộc tranh cử tổng thống suốt năm 2024 vừa qua, ông luôn luôn hứa sẽ đưa các tín hữu Kitô Mỹ trở lại nắm quyền chính trị.  Dạo tháng Hai năm vừa qua, trong một phòng chật ních các phóng viên và ký giả đặc trách về tin tức tôn giáo, ông hứa: “Nếu tôi trở lại (Tòa Bạch Ốc), quý vị sẽ sử dụng quyền lực chưa bao giờ có trước đó. Với sự giúp đỡ và ơn Chúa, cuộc canh tân của nước Mỹ sẽ bắt đầu vào ngày mùng Năm tháng Mười Một”. Trong nhiều cuộc vận động khác nhau, ông cam kết sẽ để cho các nhà lãnh đạo Kitô giáo có một đường giây “trực tiếp với Tòa Bạch Ộc và với ông” đồng thời  sẽ thành lập một ủy ban đặc nhiệm để “chấm dứt việc vũ khí hóa chính phủ chống lại các tín hữu Kitô” (6).

Donald Trump có phải là một tín hữu Kitô thuần thành  quyết tâm tranh đấu để “bảo vệ” Kitô giáo không? Một trong những chức sắc công giáo hàng đầu của Giáo hội Công giáo tại Mỹ là Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, người luôn “sát cánh” với ông, tin rằng tổng thống Trump là “người xem trọng niềm tin Kitô giáo của mình” (7). Nhưng đâu là “niềm tin Kitô giáo” được ông Trump “xem trọng”? Có lẽ cả nước Mỹ sẽ không bao giờ quên bức hình chụp ông đứng trước cửa một nhà thờ gần Tòa Bạch Ốc, trên tay “cầm ngược” Quyển Kinh Thánh. Vô tình hay hữu ý, không ai biết. Nhưng bức ảnh này có lẽ nói lên “thứ Kitô giáo” của riêng ông, được ông không ngừng “rao giảng”. Thật vậy, khi ra tranh cử tổng thống lần đầu tiên năm 2016, trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh, khi được hỏi câu nào hay câu chuyện nào trong Kinh Thánh ông ưa thích nhứt, ông trích câu “mắt đền mắt răng thế răng” (8). Đúng là Kinh Thánh “cầm ngược”! Đúng là “niềm tin Kitô giáo” của riêng Donald Trump! Và ông đã “xem trọng” một “niềm tin Kitô giáo” của riêng ông như thế trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông và nhứt là trong suốt mấy tuần lễ đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai này. Suốt trong 8 năm qua và cho đến nay, bên cạnh những lời láo khoét và dối trá, những lời ông nói ra toàn sặc mùi thù hận và hàng trăm sắc lệnh hành pháp ông đưa ra hầu hết đều qui về sự trả thù.

Nếu Chúa Giêsu trở lại và lắng nghe những lời “rao giảng” của Donald Trump về Kitô giáo, liệu Ngài có còn nhận ra Tin Mừng của Ngài không? Liệu 80 phần trăm các tín hữu Tin Lành và hơn 50 phần trăm người công giáo Mỹ đã dồn phiếu cho ông Trump trong các cuộc bầu cử vừa qua có nhận ra được Tin Mừng của Chúa Giêsu trong những hành động và những lời “rao giảng” của ông Trump không?

Càng gần đất xa trời, tôi không ngừng “về thu xếp lại” mọi sự trong cuộc sống. Ngay cả trong niềm tin tôn giáo, tôi cũng muốn “về thu xếp lại” cho gọn gàng hơn. Có thể tôi chẳng còn tin có một Thiên Chúa nếu Ngài chọn riêng một dân tộc, ra lệnh tiêu diệt những dân tộc khác, bách hại tín đồ của những tôn giáo khác và như vậy gieo rắc hận thù trong lòng người...Nhưng tôi tin chắc rằng tôi chỉ có thể thực sự sống niềm tin Kitô giáo của tôi nếu tôi cố gắng thực thi lời rao giảng của Chúa Giêsu (Matthew 25, 31-46) như được nữ Giám mục Mariann Budde quảng diễn trong bài giảng đọc trước Tổng thống Trump tại nhà thờ Chính tòa quốc gia ở Washington, một ngày sau khi ông nhậm chức. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu chẳng hỏi tôi “có đạo” không, có thuộc Giáo hội nào không, có đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhựt không, có thuộc và tuyên xưng Kinh Tin Kính không, có in ấn và phân phát Kinh Thánh không, có tranh đấu để đưa Kitô giáo vào địa vị độc tôn trong xã hội không...Ngài chỉ hỏi tôi có yêu thương những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thân cô thế, những người bị phân biệt vì những khác biệt của họ, những người khách lạ hay đặt vào hoàn cảnh hiện tại ở Mỹ, có yêu thương những người di cư, tỵ nạn không? Có lẽ nếu có trở lại trần gian một lần nữa và nhứt là nhập thể làm người ở Mỹ, không chừng Ngài sẽ hóa thân làm Nữ thần Tự Do...

Có người cho rằng những gì Tổng thống Trump làm là cần thiết, như những “liều thuốc đắng” để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Tôi e rằng đó không phải là những “liều thuốc đắng” mà chỉ là những “liều thuốc độc” hủy hoại đời sống của tất cả mọi người. Kitô giáo được gọi là Đạo của Tình thương. Người Kitô giáo sống trong quỹ đạo của Tình Thương. Vậy, Tình Thương đang ở đâu?

Tôi không biết một người như Donald Trump có hạnh phúc không nếu phải thức hầu như suốt đêm để phóng lên mạng Truth Social những lời rủa sả, hậm hực đầy hận thù. Tin Mừng của Chúa Giêsu không chỉ hứa hẹn cho tôi một thiên đàng ở đời sau, mà còn bảo đảm cho tôi niềm hạnh phúc ngay trên cõi đời này. Thật vậy, con người chỉ thật sự cảm nhận được hạnh phúc và bình an khi họ muốn yêu thương người khác bằng cách sống khoan nhượng, cảm thông, bao dung, tha thứ với mọi người. Và dĩ nhiên, nếu nhân loại còn có một tương lai thì tương lai đó chỉ có thể thuộc về lòng nhân ái!

Chu Văn

 

 

Chú thích

1. Kalyn Ngô, 53 ngày của Adolf Hitler và Một ngày của Donald Trump, Việt Báo 21/01/25.

2. Richard Dawkins, The God Delusion, Bantam Press, 2006. trg 277.

3. sđd

4. sđd

5. sđd

6. Elizabeth Bruenig, “A very Christian concept”, The Atlantic, February 9, 2025

7.Tara Sutter, Cardinal Dolan: Trump “takes his Christian faith seriously”, The Hill 12/23/24.

8. Rebecca Shabad, Donald Trump names his favorite Bible verse, CBS News April 14, 2016