Năm 1995, nhân dịp tưởng niệm 20 năm biến cố 30 tháng Tư,
nhạc sĩ du ca Phan Văn Hưng có sáng tác một ca khúc mang tựa đề “20
năm”. 20 năm là một giai đoạn khá dài trong một đời người. Mới đó mà “đàn
trẻ thơ nay đã lớn và chàng trai nay đã già”. Nhưng người nhạc sĩ dường như muốn
nói với chúng ta rằng thời gian như ngừng trôi. Cuộc sống xem ra vẫn dậm chân tại
chỗ kể từ sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Bởi lẽ “Hai mươi năm (rồi mà vẫn
còn) người cụt chân trên hè phố. Kẻ quyền uy trong căn nhà, người nằm rên trong
hộ xá”. Vẫn còn cái cảnh “nhiều kẻ gian trong làng xóm, người hiền khô mang
gông cùm, kẻ mộng du lên bạo chúa, người ngồi khóc trên sân chùa”. Hay “triệu
người đi trong cuộc sống, mà thể xác như không hồn. Triệu người vui trong xa
hoa. Triệu người lao trong cùng khốn và buồn vui như bao lần”.
Nay sắp đến kỷ niệm 50 năm biến cố 30 tháng Tư. Nếu nhạc
sĩ Phan Văn Hưng sửa lại câu mở đầu thành: “Năm mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã là
ông là bà” thì bức tranh vẫn còn nguyên như cũ.
Với tôi, 50 năm cũng vẫn là một cơn ác mộng dài. Cái chế
độ mà tôi đã trốn chạy cách nay hơn 40 năm dù có thay da đổi thịt, cái chủ
nghĩa vô nhân đạo được áp đặt lên dân tộc tôi dù có bị chôn vùi trong đống rác
của lịch sử, những người vẫn tiếp tục vỗ ngực tự xưng là “cộng sản” dù chẳng
còn tin hay biết gì về chủ nghĩa ấy...tất cả vẫn đều như cũ! Cái linh hồn của
chế độ đó là dối trá, tham tàn, độc ác vẫn còn nguyên vẹn! Và tôi, một người tỵ
nạn cộng sản, vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn. Tôi xem hơn năm năm sống dưới chế
độ cộng sản và nhứt là cuộc vượt biên đem cuộc sống ra cá cược để đổi lấy hai
chữ tự do như một thứ vốn quý giá nhứt trong cuộc đời.
Tôi đã chọn Úc Đại Lợi làm quê hương thứ hai và hình như
quê hương thứ hai này lúc nào cũng nhắc nhở tôi về tư cách tỵ nạn của tôi. Thật
vậy, trong câu chuyện trao đổi với tôi, hầu như người dân Úc nào, dù thuộc sắc
tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, cũng đều có lúc hỏi tôi: gốc gác của ông người
nước nào? Và dĩ nhiên tôi được dịp lên giọng “sáu câu” về địa lý, về lịch sử của
đất nước tôi và nhứt là hãnh diện “tuyên xưng” rằng tôi đã từng là một “thuyền
nhân” và vẫn mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản.
Tôi có nghe nói đến sự độc ác của những bạo chúa như Tần
Thủy Hoàng bên Trung Hoa hay Nero của Đế quốc La Mã. Tôi không thể hình dung được
sự độc ác của những bạo chúa ấy. Nhưng sự tàn bạo dã man ngoài sức tưởng tượng
của tôi mà Đức quốc xã và bạo chúa Adolf Hitler đã để lại trong lịch sử nhân loại
thì tôi tin như kinh “tin kính” trong nhà đạo của tôi. Bởi lẽ vô số những nạn
nhân đã từng sống sót trở về từ những trại tập trung hay lò sát sinh mà Hitler
đã cho dựng lên khắp Âu châu đã là những nhân chứng sống động về sự độc ác ấy.
Chỉ có những con người không có trái tim mới chối bỏ điều
đó. Tôi không thể tưởng tượng được người giàu có nhứt hành tinh hiện nay là
Elon Musk đã có thể ngang nhiên chối bỏ tội ác của Hitler. Ông khẳng định rằng
Hitler không hề giết 6 triệu người Do Thái. Không riêng Hitler, mà ngay cả những
bạo chúa của các chế độ cộng sản như Stalin và Mao Trạch Đông cũng đều được
Musk “xá giải” hết. Mọi tội ác đều được trút lên đầu các cộng sự viên của các bạo
chúa này (1).
Đã có vô số những nạn nhân sống sót từ các trại tập trung
của Đức quốc xã đã làm chứng về tội ác của Hitler. Và dĩ nhiên cũng đã và đang có vô số những nạn nhân của các chế
độ cộng sản làm chứng về tội ác của cộng sản. Tôi hãnh diện được mãi mãi làm một
chứng nhân như thế. Hitler đã chết. Đức Quốc xã cũng đã chết. Nhưng chế độ cộng
sản mà tôi đã trốn thoát vẫn còn đó. Tôi muốn được mãi mãi làm một người tỵ nạn
để làm chứng về tội ác của chế độ đó. Nhưng chứng từ của tôi trước tiên phải là
một bài học nhớ đời cho chính bản thân tôi. Người ta thường gán cho triết gia,
thi sĩ Tây Ban Nha, ông George Santayana (1863-1952) câu nói: “Những ai quên lịch
sử sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật ra câu nói đúng của ông là “những ai không thể
nhớ quá khứ sẽ bị kết án lập lại nó”. Thật thế, có biết bao nhiêu người, trong
đó có rất nhiều người Việt Nam đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đã từng vượt
biên và được Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc nhìn nhận như một người tỵ nạn, nay “qua
cầu rút ván”, quay lưng lại quá khứ để
tôn thờ những lãnh tụ sặc mùi kỳ thị, miệt thị và khước từ những người đồng loại
đang lâm vào cùng một cảnh ngộ như mình trước kia.
Tôi tự nhủ sẽ mãi mãi là một người tỵ nạn cộng sản để
không bao giờ quên quá khứ và như thế để không ngừng chiến đấu chống lại trong chính
bản thân tôi những khuynh hướng thấp hèn nhứt trong con người là dối trá, kỳ thị,
hận thù, tham tàn và độc ác.
Sắp bước vào tuổi bát tuần, tôi cảm thấy như bị bỏ lại
đàng sau trong đà tiến nhanh đến chóng mặt của thế giới ngày nay. Trong phần mở
đầu của biên khảo có tựa đề “Homo Deus: A brief History of Tomorrow” (Tạm dịch:
Con người sẽ trở thành Thượng Đế: một lịch sử ngắn của ngày mai), sử gia Yuval
Noah Harari đã nói đến hai bước tiến bộ vượt bực của nhân loại: một là chiến thắng
trên sự chết, hai là loại trừ được chiến tranh! Theo ông, y khoa đang tiến tới
một giai đoạn chắc chắn trong đó tất cả các cơ phận con người đều có thể “tái sinh”
để giúp con người có thể sống mãi. Dĩ nhiên, con người không trở thành bất tử (immortal),
bởi vì tai nạn hay ý muốn chết vẫn có thể cướp đi mạng sống con người, nhưng sống
mãi (amortal) là điều nằm trong khả năng của con người. Về chiến tranh, ông cho
rằng thế giới sẽ không bao giờ có thế chiến thứ ba nữa. Mặc cho Bắc Hàn có điên
khùng đến đâu, mặc cho Nga có nhiều lần mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa, ai cũng
biết rằng mó tay vào thứ vũ khí này, cả thế giới đều ra tro.
Về những tiến bộ vượt bực của thế giới ngày nay, tỷ phú
Bill Gates, đồng sáng lập viên của công ty Microsoft mới đây đã tiên báo rằng
chỉ trong 10 năm nữa, trí khôn nhân tạo (AI) sẽ thay thế con người trong hầu hết
mọi sự. Cụ thể, sẽ đến lúc thế giới sẽ chẳng cần bác sĩ và thày giáo nữa, bởi
vì trí khôn nhân tạo sẽ làm việc trong lãnh vực y tế và giáo dục một cách hiệu
quả hơn (2).
Tôi không biết mình có sống tới ngày đó để tận mắt nhìn
thấy những tiến bộ như thế không. Tôi chỉ biết chắc có một điều: trí khôn nhân
tạo đã mở tung hộp Pandora ra và loài sâu bọ khủng khiếp nhứt trong trái tim
con người là sự dối trá hiện đang lan tràn khắp thế giới. Có lẽ chưa bao giờ
con người dễ nói dối, dễ tin những lời dối trá và cũng dễ phát tán những lời dối
trá cho bằng ngày nay.
Trong các chế độ độc tài, mọi lối dẫn vào sự thật đều bị
bưng bít. Người dân trong các chế độ đó chỉ nhận được thông tin một chiều cho
nên không thể kiểm chứng được những gì họ nghe. Cách đây 2 năm, khi về thăm
nhà, tôi nhận thấy cuộc sống của những người bà con thân thuộc của tôi có phần
khá giả hơn trước kia nhiều. Nhiều người đã xây nhà mới. Có người cũng có xe
hơi. Còn những phương tiện truyền thông như Iphone, Smartphone...thì quả thật “chạy
đầy đường”. Và điều khiến tôi lo ngại nhứt là khi cầm những phương tiện đó trên
tay và chúi mũi vào đó hầu như từng phút từng giây, ai cũng nghĩ rằng mình
thông biết mọi sự trên đời. Nhưng hầu như mọi thứ “thông tin” mà họ nhận được
và hăng say quảng bá đều là những tin giả và thuyết âm mưu. Tác động của trí
khôn nhân tạo, mà cụ thể là qua các mạng lưới thông tin toàn cầu có lẽ một phần
đã củng cố cho các chế độ độc tài và một cách nào đó tạo điều kiện cho tin giả,
các thuyết âm mưu và sự dối trá đầu độc người dân trong các chế độ độc tài.
Nhưng con sâu dối trá mà hộp Pandora đã tung ra khắp mặt
đất không chỉ đục khoét đầu óc của người dân trong các chế độ độc tài. Trong một
quốc gia dân chủ và văn minh nhứt thế giới như Hoa Kỳ, con sâu dối trá hiện
đang phá nát đất nước này và làm đảo điên khắp thế giới.
Kể từ khi ông Donald Trump xuất hiện trong chính trường Mỹ,
nghe những gì ông nói, nhứt là khi nổ ra đại dịch Covid-19 và những phát biểu của
ông về địa lý và chính trị thế giới, những cộng tác viên thân cận nhứt của ông
trong nhiệm kỳ đầu thường hay dùng từ “đần độn” (moron) để nói về sự hiểu biết
và trí thông minh của ông. Một tờ báo bảo thủ như The Wall Street Journal,
trong bài xã luận viết về cuộc chiến thuế quan của ông, cũng đã gọi đây là “cuộc
chiến thương mại ngu xuẩn nhứt trong lịch sử”(3). Tôi vẫn thử cố gắng “làm trạng
sư của quỷ” để bênh vực cho những chính sách và đường lối của ông: Là “con nhà
trời”, là “thiên sứ” được Thượng Đế sai đến cho nên cũng như Thượng Đế, ông có
lối suy nghĩ, cách tính toán và những chính sách “cao siêu” mà trí khôn của một
người phàm như tôi không thể nào hiểu thấu được. Một số bạn bè của tôi ở Úc
này, vốn là những người tôn thờ ông, đã khuyên tôi phải kiên nhẫn chờ đợi 4 năm
nữa mới thấy được kết quả của những chính sách của ông. Tôi đang tập kiên nhẫn
để tạm tin như thế. Chỉ có điều tôn thờ ông thì không, dù ông có là ông trời
con đi nữa. Làm sao tôi có thể sùng bái hay suy tôn một người có một nhân cách
tồi tệ như ông. Mà tồi tệ nhứt trong nhân cách đó chính là sự lọc lừa dối trá.
Theo sự kiểm chứng của báo The Washington Post, trong 4 năm nhiệm kỳ đầu của
ông, ông đã nói dối hơn 30 ngàn lần, nghĩa là trung bình mỗi ngày ông nói dối
hơn 50 lần. Không cần phải kiểm chứng, bất cứ ai còn biết tôn trọng lẽ phải và
có chút lương tri cũng đều nhìn thấy việc phủ nhận kết quả bầu cử và xúi dục bạo
loạn hồi năm 2020 là một lời dối trá mà chỉ có một tên lưu manh như ông mới có
đủ trơ trẽn để làm. Rồi mới đây, mặc cho đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã lên án
hành động xâm lược Ukraine của Nga, ông đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết, nghĩa
là chối bỏ sự thật và bênh vực hành động tàn ác của Nga. Đó là chưa kể việc ông
lật lọng đến độ lên án Ukraine là nước gây ra chiến tranh và gọi nguyên thủ của
nước này là một nhà độc tài.
Người dân Mỹ đã bầu một tên dối trá như thế lên làm tổng
thống. Sự dối trá đã trở thành chuẩn mực cho cuộc sống và cứu cánh biện minh
cho phương tiện là phương châm hành động. Không cần biết Donald Trump có dối
trá và nhân cách có tồi tệ đến đâu miễn là ông “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.
Cứ mỗi lần nghe hai chữ “vĩ đại”, tôi lại nhớ đến một người
bạn dạy Anh văn trung học đệ nhị cấp trước năm 1975. Sau 30 tháng Tư, anh được
lưu dụng một thời gian. Anh kể lại: trong một giờ học, anh hỏi các em học sinh
phải dịch hai chữ “vĩ đại” như thế nào sang Anh ngữ. Một em đã hớn hở nói lớn:
“Thưa thày, vĩ đại dịch sang tiếng Anh là “enormous”. Anh bảo: anh phá lên cười
và nghĩ bụng, nếu áp dụng từ Anh ngữ này cho con người đang được suy tôn là “vĩ
đại” thì thật là “khủng khiếp”.
Nghĩ đến hai chữ “vĩ đại”, tôi cũng liên tưởng đến một đoạn trong phim “Chuyện tử
tế” được đạo diễn Trần văn Thủy thực hiện năm 1985. Nhà làm phim có hỏi một đám
trẻ con nghĩ gì về hai chữ “vĩ đại”. Một em nói: “vĩ đại” thì chúng cháu có
nghe nói, nhưng chưa từng thấy.
Thật vậy, sự vĩ đại đích thực không nằm trong sức mạnh
kinh tế hay quân sự, mà chỉ được nhìn thấy trong tâm hồn hay tư cách của một
con người. Văn hào Victor Hugo, người đã đề cao sự nhẫn nhục hy sinh và thương
người của người gù Quasimodo trong quyển tiểu thuyết “Người gù nhà thờ Đức Bà
Paris”, đã nói: “Có một quang cảnh vĩ đại hơn đại dương, đó là bầu trời. Có một
quang cảnh vĩ đại hơn bầu trời, đó là tâm hồn con người” Điều này hoàn toàn
đúng với danh hiệu “Mahatma” (vĩ đại) mà người dân Ấn Độ đã truy tặng cho Gandhi,
người đã giành được độc lập cho Ấn Độ mà không cần một vũ khí nào khác hơn là
chủ trương “Satyàgraha” nghĩa là “kiên trì trong sự thật”. Quả thật, như Chúa
Giêsu đã dạy “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người”. Trong thế giới đang đảo
điên vì dối trá, có lẽ chỉ có những ai dám sống chết và lên tiếng cho sự thật,
người đó mới thật sự được giải phóng và trở thành “vĩ đại”.
Chu Văn Tháng Tư 2025
Chú thích
1.Jordan Liles ,Fach Check: Musk reposted post that said
“Stalin, Mao and Hiler didn’t murder millions of people Yahoo news March 15, 2025
2.Ariel Zilbar, Bill Gates: AI replace major jobs within
10 years, humans won’t be needed “for most things” New York Post March 29, 2025
3.Edward Helmore, Wall Street Journal editorial calls
Trump tariffs “dumbest trade war in history” 3 Feb 2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét