Tôi vừa qua mốc điểm 40 năm bước chân đến Úc. Người ta thường thích nhắc đến những cột mốc thời gian. Con số càng lớn thì càng đáng để nhắc đến. Bởi từ đó, họ có thể đánh giá những gì đạt được. Tất cả những đánh giá cũng thường là những con số. Sau bao nhiêu năm, có được bao nhiêu bằng cấp, tạo được bao nhiêu của cải, có thêm được bao nhiêu thương vụ, cơ sở, bất động sản, bao nhiêu bạn bè, con cháu…Cũng hợp lý thôi. Đời người có một lần 40 năm ở một xứ thanh bình quả là một may mắn. Thế nhưng, với tôi, những con số thường gợi lên cho tôi những băn khoăn, thắc mắc. Khi đọc những con số được liệt ra thì tôi lại liên tưởng đến những con số cố tình bị bỏ quên. Vì sự thường, bên dưới con số chỉ ra sự thành công thường là con số của những cái giá phải trả không những của chính đương sự mà cả của những người khác. Những con số có thể lớn hơn, đắt hơn rất nhiều. Con số 40 năm của tôi không ngoại lệ.
Thứ tự đời người gói trọn trong sinh lão bịnh tử. "Sinh" bao gồm tuổi thơ, học hành, lập nghiệp, gia đình..."Lão" và "Bịnh" thì thường đi với nhau không hẳn phải theo thứ tự nhưng chắc chắn "Tử" thì phải sau chót và chẳng ai thoát.
Với tôi, hôm nay, khi nhìn lại tôi chỉ thấy rằng cuộc đời tôi đã đảo lộn kể từ 1975 và tiếp tục đảo lộn ngay cả sau khi đã được định cư ở Úc. Cái nên đến trước thì lại đến sau và cái có thể để sau thì lại phải làm trước.
Cái đảo lộn đầu tiên phải nói là cái tên của tôi. Tôi không khó chịu vì phải đem cái tên đặt trước cái họ. Nhưng mấy “thầy" thông dịch lại lôi cái tên đệm "thị" ra phía trước. Kết quả là đàn bà con gái Việt Nam ở Úc có tên Thi rất nhiều, không thua gì cái họ Nguyễn. Tôi đành phải chấp nhận tên "Thi" vì không biết phải làm sao. Dốt tiếng Anh nó vậy. Tự nhủ, mất nước rồi thì có mất tên cũng chỉ là chuyện nhỏ.
Như cái tên của tôi, cuộc sống khi vừa đặt chân đến Úc không như tôi nghĩ. Vào thời điểm 1982, với những đợt sóng người tỵ nạn dồn dập, các dịch vụ dành cho người mới đến, nhất là dịch vụ thông dịch trở nên quá tải. Tôi không biết rất nhiều thông tin hữu ích. Tôi không biết rằng mình có thể và có quyền đi học. Tôi cũng không biết rằng học không khó khăn và “ghê gớm” như tôi nghĩ. Thời đó, giáo dục gần như là miễn phí ở Úc và được trợ cấp. Nhìn những người chung quanh, không mấy ai đi học. Cuối cùng, tôi phải làm lụng, nuôi con và xây dựng gia đình. Con tôi càng lớn thì giấc mơ đi học của tôi càng xa đến nỗi tôi không muốn nghĩ đến. Học, với tôi, suốt đời, là một thôi thúc. Đồng lương của người không có bằng cấp cũng đủ sống nên tôi cũng an phận vì biết rằng muốn học một ngành nào đó thì đều phải bước qua cái ải Anh văn. Mà tôi thì thấy mình kém quá nên cứ nghĩ rằng thôi để lo cho các con xong rồi học cũng không muộn. Tôi tìm an ủi bằng cách nhìn từng đứa con ra trường.
Cho đến khi đứa con cuối cùng ở năm thứ ba đại học, tôi quyết định đi học trước khi trễ chuyến tàu chót. Thế là vừa đi học vừa đi làm. Khi ra trường, tôi đã quá 50. May mà có việc.
Tôi đạt được giấc mơ được đi học. Tôi không ngờ sự học và tiếng Anh đã cho tôi không những một sự nghiệp tôi luôn ôm ấp, mà còn mở ra nhiều cánh cửa khác mà suốt mấy chục năm ở Úc tôi không cách nào mở ra được: tôi có thể đọc những bài viết, nghe tin tức, nói chuyện với hàng xóm bằng một tiếng Anh mà người đối diện có thể hiểu được. Tôi có thể giải thích những vấn đề liên quan cho bệnh nhân một cách dễ hiểu và chi tiết. Tôi cũng có thể giúp liên lạc với các cơ quan dịch vụ cho họ, một điều mà trước đây tôi phải nhờ người khác với tất cả sự ngưỡng mộ. Đương nhiên dù có học thêm bao nhiêu năm, tiếng Anh của tôi vẫn là một thứ tiếng Anh "ăn đong". Nhưng với tôi, vậy là đủ. Tôi đã mở được những cánh cửa cần thiết để tiếp tục hành trình học hỏi, tham khảo và giao tiếp. Tôi vui hơn trúng số. Giá mà tôi quyết định đi học sớm hơn…
Nếu đời tỵ nạn có bị đảo lộn rồi cũng đi đến nơi muốn đến trước khi bước vào "lão, tử" như vậy thì với tôi, vẫn còn may. Thế nhưng, những cánh cửa tôi mở ra lại dẫn tôi về một giai đoạn trong quá khứ mà bây giờ, dù rất muốn, tôi không đi ngược lại được. Trong một dịp tình cờ, tôi mới biết được rằng, những khủng hoảng tuổi thiếu niên mà các con tôi phải trải qua một phần bắt nguồn từ sự cản trở ngôn ngữ. Tiếng Việt của chúng không đủ và tiếng Anh của tôi lại càng không đủ. Ở đây, không ai chết đói vì đi học. Thế hệ tỵ nạn ít người đi học có thể vì nhu cầu giúp đỡ gia đình ở quê nhà, xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái và áp lực của cải. Và nhất là vì không nhìn thấy lợi ích lâu dài và hạnh phúc của việc biết thêm một ngôn ngữ, có thêm kiến thức và một sự nghiệp tốt. Tất cả lý do đều chính đáng. Thế nhưng, việc được cung cấp một cuộc sống đầy đủ tiện nghi vật chất không hẳn có thể giải quyết nhu cầu thực sự của thế hệ đầu tiên sinh ra và lớn lên ở Úc. Chúng cần sự cảm thông hai chiều trong cuộc sống giữa những xung đột của hai nền văn hóa. Hiểu và được hiểu trong quan hệ gia đình là một hạnh phúc mà chúng tôi đã đánh mất vào cái lúc cần thiết nhất.
Tôi tin tôi không là một ngoại lệ. Khi không hội nhập được vào những thông tin dòng chính nơi mình đang sống, chúng ta sống co cụm với những kiến thức lệ thuộc vào người khác và không có khả năng đối chiếu, kiểm chứng hay nghi vấn. Cũng không có khả năng để giải thích những khác biệt giữa văn hóa Úc Việt. Tiếng Anh đã chấp cánh cho tôi. Và tôi cảm nhận được sự bao la của kiến thức và tư tưởng.
Bây giờ, mẹ con chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều hơn và hiểu nhau hơn. Nhưng không còn là câu chuyện giữa một bà mẹ trẻ và những đứa con lô nhô mà là câu chuyện giữa một người bước vào tuổi già và những người đã trưởng thành. Chúng tôi kể lại cho nhau những khoảng trống trong quá khứ. Đời tôi cái gì cũng ngược.
Cuối cùng, giá mà tôi có thể đi ngược về "quê hương bỏ lại" của ngày nào trong kiếp này.
Nằm mơ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét