Chu Văn
Nghe tin bà chị già ở Việt Nam đau nặng, tôi tức tốc về
thăm và tiện thể nhìn lại những nơi đã từng in đậm những dấu chân tuổi thơ của
mình.
Nhà chị tôi ở cách thị xã Nha Trang khoảng 40 cây số về
hướng Tây. Trước năm 1975, nhứt là sau khi nền Đệ nhứt Cộng hòa cáo chung và hệ
thống ấp chiến lược sụp đổ, vùng này đã
trở thành vùng oanh kích tự do: cứ mỗi buổi chiều, pháo binh từ quận Diên Khánh
nã đại bác về vùng này và dĩ nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng hầu như
không thể nào xâm nhập được vùng này. Đây là vùng cấm địa và cũng là tử địa.
Chuyện các ông xã trưởng hay thôn trưởng nửa đêm bị dắt ra trước nhà để bị xử bắn
hay chặt đầu không phải là điều hiếm khi xảy ra. Một ông quận trưởng đã bị thảm
sát một cách dã man cũng trong vùng này: mới về nhậm chức, ông muốn đích thân
đi thị sát trận địa; một cuộc phục kích giữa ban ngày đã khiến ông chết tại chỗ.
Trước năm 1975, chết vì bom đạn, chết vì hận thù là “chuyện
thường ngày ở huyện” đối với người dân trong vùng này. Sau năm 1975, vùng này
trở thành vùng “ kinh tế mới”. Gọi cho đúng tên thì đây là nơi đày đọa của các
gia đình quân cán chính của chế độ cũ. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh công an đến
xúc người dân thành phố lên xe tải, phát cho mỗi gia đình một vài tấm tôn, cộng
với một ít gạo mốc và mắm muối rồi chở họ lên vùng rừng thiêng nước độc. Một số
đã trốn về thành phố để tìm đường vượt biên. Một số tìm về thành phố để sống
qua ngày với nghề bán buôn “chợ trời”. Số còn lại đành sống lây lất với đói
khát và làm mồi cho không biết bao nhiêu bệnh tật, nhứt là sốt rét.
Phải đợi mãi cho đến thời kỳ “đổi mới” hay “mở cửa”, nhứt
là với cơn sốt đất đai và khi bệnh sốt rét được chận đứng trong thập niên
1990, vùng này mới thực sự thay da đổi thịt. Ngày nay những “túp lều của chú
Tom” không còn nữa. Thay vào đó là những ngôi nhà ngói khang trang. Ở đâu cũng
có đường tráng nhựa. Trước kia, muốn đi từ Nha Trang lên Đà Lạt, phải vào Phan
Rang đi Song Pha, leo lên đèo Ngoạn Mục, mất 4, 5 tiếng đồng hồ. Nay từ nhà chị
tôi, chỉ cần băng qua một ngọn đèo mất chừng hơn 2 tiếng đồng hồ là tới Đà Lạt.
Quán xá, nhứt là cà phê, mọc lên khắp nơi. Trước kia dân “thổ địa” của vùng này
là người Thượng thuộc nhiều bộ lạc khác nhau. Nay có đốt đèn giữa ban ngày cũng
không tìm đâu ra được một ngôi nhà sàn hay một cái chòi giữa núi rừng. Còn hình
ảnh những người đàn ông đóng khố hoặc những người đàn bà mặc váy thổ cẩm, lưng mang gùi, trước ngực đèo một thơ nhi có lẽ chỉ còn trong
tranh vẽ. Ngày nay người Thượng cũng đã có nhà cửa hẳn hoi, cũng có ruộng nương
và nhứt là cũng sử dụng các phương tiện giao thông và truyền thông hiện đại như
người Kinh.
Về thăm bà chị và đi một vòng trong vùng trước kia là rừng thiêng nước độc, có lúc
tôi cũng cảm thấy phấn khích như nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả của tập hồi ký nổi
tiếng “Đêm giữa ban ngày”. Sau nhiều năm sống lưu vong ở Pháp, trở về Hà Nội và
đi thăm một vài nơi, ông thốt lên: “Đúng là đất nước thay đổi rất nhiều. Mình đến
đâu cũng nhận ra điều đó. Mừng quá”(1).
Quả thật, tôi cũng “mừng quá”! Đi nhiều nơi, tôi không
còn nghe trẻ con hát nhại: “Cây cuốc cong mình mong cho cây cuốc gẫy. Cây cuốc
gẫy thì mình khỏi ra đồng. Tổ quốc ơi, ăn khoai mì mãi mãi”. Ở đâu tôi cũng thấy
em học sinh trung học nào cũng miệt mài chúi mũi vào màn ảnh của chiếc điện thoại
cầm tay.
Nhưng cũng như nhà văn Vũ Thư Hiên, ở tuổi già, lúc nào tôi
cũng mơ được trở về với “Miền thơ ấu” (2). Về thăm bà chị, tôi muốn tận mắt
nhìn lại một địa danh nổi tiếng trong “miền thơ ấu” của tôi là Đồng Trăng, chỉ
cách nhà chị tôi vài cây số. Trước năm 1975, đây là một đồn điền cao su khá lớn
do một người Pháp làm chủ. Vợ ông là một người công giáo thuộc giáo xứ của tôi.
Chính vì thế mà năm 1954, trước hiệp định Genève vài tháng, ông đã cho tổ chức
một cuộc dã ngoại dành riêng cho một số người trong giáo xứ. Mẹ tôi đã dắt tôi
theo. Năm đó tôi đã lên 8 tuổi. Lần đầu tiên trong đời tôi được chạy nhảy trong
một vườn cao su, nghe những người công nhân làm việc trong đồn điền giải thích
về cách cạo mủ và chế biến. Nhưng thú vị nhứt đối với tôi là được ra nhìn ngắm
và bơi lội ngay ở thượng nguồn của Sông Cái nằm sát bên vườn cao su. Nước trong
vắt. Bãi cát thì trinh nguyên. Xa bờ không bao nhiêu vẫn thấy được những con
rái cá ngụp lặn đi săn mồi. Nay Đồng Trăng, như tên gọi đã có từ thời ông bà cố
tổ của tôi, không hiểu sao đã biến thành “Đồng Trăn”. Đồng Trăng trong “miền
thơ ấu” của tôi nay đã biến đổi tận gốc rễ. Đồn điển cao su đã biến mất. Thượng
nguồn của Sông Cái giờ chỉ còn là một vũng bùn, với dòng nước đục ngầu, “lười”
đến độ không còn muốn chảy. Bãi cát trinh nguyên nơi tôi đã từng chạy nhảy giờ chỉ còn là một vũng bùn lầy và
rác dọc theo bờ. Thượng nguồn mà còn ô nhiễm thì huống chi những khúc sông chạy
dài ra tới biển Nha Trang. Tìm về tuổi thơ, tôi nói với các cháu muốn được ăn lại
những loại cá nước ngọt mà tôi đã từng câu dọc theo Sông Cái. Nhưng các cháu
tôi bảo rằng ngày nay ít còn ai dám ăn cá nước ngọt từ Sông Cái!
Lần theo thượng nguồn của Sông Cái, tôi được các cháu đưa
đến những con suối tưởng là còn trinh nguyên. Nhưng tôi đã tận mắt chứng kiến một
cảnh tượng đau lòng: hai bên bờ suối là cả một bãi rác đầy bao nhựa và các thứ
lon bia và nước ngọt. Người dân vẫn nghĩ rằng đây là nơi họ có quyền được “vô
tư” xả rác mà không hề có chút ý thức nào về hành động gây ô nhiễm môi trường của
họ.
Ở một “vùng sâu vùng xa” như nơi chị tôi đang sống mà còn
như vậy thì tại những khu dân cư đông đúc dọc theo bờ biển, tình trạng ô nhiễm
còn bi đát hơn. Biết tôi thích câu cá, vài thanh niên gọi tôi bằng ông đã đưa
tôi đến tận Cam Ranh, thuê một chiếc ghe máy và đưa ra khơi cách bờ đến cả chục
cây số. Có lẽ đây là lúc tôi cảm thấy buồn hơn bao giờ hết khi nghĩ đến “đất nước”
của mình. Suốt gần một ngày quăng câu giữa biển khơi mà chỉ bắt được vài con cá
đổng bằng hai ngón tay. Tôi không buồn vì không câu được cá cho bằng cứ phải
đưa mắt nhìn dòng hải lưu đầy rác rưởi trôi lềnh bềnh suốt ngày. Chiều đến, khi
ghe vào gần bến là lúc thủy triều xuống, tôi cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy đủ
các loại bao nhựa phủ kín bờ biển.
Những gì tôi tận mắt chứng kiến tại vùng quê của chị tôi
cũng như tại một vùng biển nổi tiếng là Vịnh Cam Ranh có lẽ cũng đủ để vẽ lên bức
tranh tổng thể về tình trạng ô nhiễm tại
Việt Nam hiện nay.
Năm 2024, hai đại học Yale và Columbia của Mỹ đã hợp tác
với Diễn đàn Kinh tế Thế giới để nghiên
cứu và đưa ra một bản Chỉ số về Sức khỏe của Môi trường trên toàn thế giới (EPI:
Environmental Performance Index). Theo Chỉ số này, Việt Nam đội sổ về tình trạng
ô nhiễm trong 180 nước được khảo cứu, đứng sau cả hai nước Lào và Miến Điện.
Riêng theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ô nhiễm không khí tại Việt Nam gây ra
ít nhất 70.000 ca tử vong mỗi năm. Về nguồn nước uống, chỉ có khoảng 55 phần
trăm dân thành phố có được nước sạch. Người dân nông thôn chủ yếu sử dụng nước
từ mặt sông, suối, giếng nông và nước mưa là những nguồn dễ bị ô nhiễm(3).
Đúng như nhà văn Vũ Thư Hiên đã nhìn nhận “đất nước đã
thay đổi rất nhiều”. Nhưng với tôi, “xe hơi, nhà lầu” và cuộc sống vật chất với
nhiều tiện nghi hiện đại của người dân vẫn không che khuất được “tội ác” mà chế
độ đang gây ra cho đất nước. Trong cuộc biểu tình chống Formosa gây ô nhiễm hồi
năm 2017, tôi thấy một nhà trí thức nổi tiếng nước đã giương cao một tấm biểu
ngữ với nội dung “FORMOSA, hủy diệt môi trường là tội ác” (4). Tôi vẫn còn nhớ:
hồi năm 2007, Thủ tướng Kevin Rudd, nay là đại sứ Úc tại Mỹ, đã tuyên bố rằng khí
hậu biến đổi là “thách thức đạo đức lớn nhứt của thế hệ chúng ta”(5). Thật thế,
bảo vệ môi trường sống là một nghĩa vụ đạo đức của mọi người, nhứt là của các
nhà lãnh đạo quốc gia và dĩ nhiên, hủy hoại môi trường sống do đó phải là một tội
ác. Một trong những người cháu của tôi cho tôi biết rằng hiện nay rất nhiều người
trong làng tôi đang bị ung thư. Tôi buồn lắm. Đây quả là một tội ác mà chế độ
đang gây ra cho người dân.
Nếu hủy diệt môi trường là một tộc ác thì đằng sau tình
trạng ô nhiễm của Việt Nam như Chỉ số về Sức khỏe Môi trường xếp hạng chính là
sự xuống cấp đạo đức phải nói là không đáy của chính chế độ độc tài hiện nay.
Biểu hiện tột cùng của sự xuống cấp đạo đức ấy chính là sự vô cảm đến độ không
còn biết xấu hổ. Đồng lương chính thức của từ tổng bí thư đến mọi cấp bậc trong
giới lãnh đạo thua cả tiền trợ cấp được chính phủ Úc dành cho một người già, vậy
mà người nào cũng có biệt thự, biệt phủ, gởi con đi du học ở nước ngoài, ra ngoại
quốc thì ăn những miếng thịt bò dát vàng giá đến gần 2 ngàn đô Mỹ, uống những
chai rượu giá đến cả 15 ngàn đô...Thử hỏi có người nào trong giai cấp lãnh đạo
còn biết xấu hổ về tình trạng tham nhũng không? Có người nào còn biết xấu hổ và
hối hận vì “tội ác” họ đang gây ra cho môi trường sống khiến bao nhiêu người phải
vong mạng vì bệnh tật do tình trạng ô nhiễm gây ra không?
Nhìn chung, nơi nào “giây thần kinh xấu hổ” của các nhà
lãnh đạo quốc gia và các chính trị gia không còn hoạt động nữa thì nơi đó sẽ có
bất công, bất ổn và xáo trộn. Đây cũng là tình trạng của một nước giàu có và
văn minh như Hoa Kỳ hiện nay. Trong một bài viết về những xáo trộn gần đây tại
Los Angeles, Tiểu bang California, giáo sư và nhà văn Nguyễn Thanh Việt, tác giả
của quyển tiểu thuyết nổi tiếng “The Sympathizer” (cảm tình viên), đã tóm tắt về
nhân cách của Tổng thống Donald Trump: “Ông ta không biết xấu hổ, không cảm thấy
tội lỗi; ông ta hành xử thô bạo, tục tằn, chẳng hề có bất kỳ sự tiết chế nào” (6).
Dĩ nhiên, Donald Trump không là người “đơn phương” trong sự vô liêm sỉ. Dưới
chân ông có cả một đạo binh các chính khách Cộng Hòa còn đua nhau để tỏ ra vô
liêm sỉ hơn ông. Họ là những người đã từng lên án, chửi rủa cái nhân cách tồi bại,
bỉ ổi của ông để rồi liền sau đó đến quỳ gập dưới chân ông để, nói theo ngôn ngữ
thô tục của chính ông “hôn vào đ...” ông (kiss his ass). Trong tiếng Việt có lẽ
“thanh lịch” hơn, tôi nói: họ đã mửa ra những thứ tanh tưởi nhứt để rồi liền
sau đó lè lưỡi liếm vào!
Tôi tin thuyết tiến hóa hơn tin Kinh Thánh hay Kinh Tin
Kính của nhà đạo của tôi. Theo thuyết tiến hóa, giữa tôi và cậu chó nhà tôi có
rất nhiều nét tương đồng. Chỉ có một điều khác biệt trời biển giữa tôi và cậu:
cậu không hề biết xấu hổ, còn tôi mỗi khi làm điều sai trái, tôi luôn bị lương
tâm cắn rứt và biết thế nào là xấu hổ.
Tôi đang “nghiền ngẫm” một cuốn sách có tựa đề “The
psychology of stupidity” (tâm lý học về sự ngu xuẩn). Đây là bản dịch Anh ngữ của
tác phẩm bằng tiếng Pháp của tác giả Jean Francois Marmion, một chuyên gia tâm
lý nổi tiếng ở Pháp. Đóng góp vào tác phẩm còn có nhiều chuyên gia thuộc nhiều
lãnh vực khác nhau, nhứt là tại Mỹ. Hình bìa của cuốn sách khiến tôi suy nghĩ
nhiều: trong hình người ta thấy có 5 hình tượng, khởi đi từ một người đứng thẳng
để rồi từ từ khom lưng và cuối cùng trở thành vượn! Đây quả là một thứ tiến hóa
ngược: người biến thành vượn! Ngày nay trí khôn nhân tạo (AI) có thể đưa con
người lên đến tuyệt đỉnh của thông minh. Nhưng điều tôi sợ nhứt là: biết đâu nó
chẳng cắt đứt “giây thần kinh xấu hổ” trong não bộ của con người!
Chú thích
1.Một buổi sáng với cụ Vũ Thư Hiên, báo Tiếng Dân, 11
-5-2025
2.Hồi ký về tuổi thơ tại một làng quê ở Thái Bình của Vũ
Thư Hiên
3.Trở lại chuyện “ Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch”,
VNTB 17.06.2025
4. bài đã dẫn
5. The morality of climate change, Christ Riedy . Medium
Mar 4, 2014
6. Nguyễn Thanh Việt, “Fallujah bên bờ Thái Bình Dương:
Cuộc trình diễn của Trump tại Los Angeles,
Tiếng Dân 18- 6- 2025