Chu Văn
Tôi thích đọc những tản văn của một trong những tác giả nổi
tiếng trong nước hiện nay là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, kiến thức
khoa học lại uyên bác, tác giả viết về sức khỏe, bệnh tật, tuổi già và ngay cả
cái chết với giọng điệu lúc nào cũng lạc quan. Cách đây vài năm, khi bước vào
tuổi bát tuần, ông đã thu thập lại những bài viết về cũng những chủ đề trên dưới
tựa đề “Về thu xếp lại”.
Từ vài năm nay, nhứt là khi bước vào tuổi 75 mà bác sĩ Đỗ
Hồng Ngọc cho là tuổi đẹp nhứt của đời người, tôi cũng đã bắt đầu “về thu xếp lại”.
Từ nơi ăn chốn ở, vườn tược cho đến quần áo...tôi đã từ từ thu dọn lại cho gọn
gàng hơn. Nhưng mới đây ý tưởng “về thu xếp lại” trong tôi đã trở nên mãnh liệt
và thúc bách hơn sau vài lần thăm viếng một người bạn thân vừa trải qua một cuộc
giải phẫu để lấy ra một khối u trong đầu. Cuộc giải phẫu tương đối thành công.
Tôi mừng cho bạn tôi và gia đình bạn tôi. Nhưng tôi mừng
cho tôi nhiều hơn. Tôi mừng vì vẫn còn một người bạn tri kỷ theo đúng nghĩa.
Chúng tôi có thể chia sẻ cho nhau về đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất. Ở tuổi
già, tôi ngộ ra rằng có được một người bạn tâm giao là điều quan trọng nhứt. Có
lúc tôi nghĩ: có được một người bạn thân trong tuổi già là có tất cả!
Những lần thăm viếng người bạn già vừa trải qua cơn bạo bệnh
đã khiến tôi “về thu xếp lại” chuyện “bạn bè”. Trước kia, tôi rất thích giao du
với nhiều người và cũng có rất nhiều “bạn bè”. Gặp nhau trong các bữa tiệc để
chén chú chén anh là chuyện thường tình. Nhưng phải nói thẳng rằng kể từ ngày “có
Trump”, cánh cửa xã hội của tôi từ từ khép lại, “bè” từ từ biến mất. Giữa đám
đông “bè” nhiều hơn “bạn”, tôi cảm thấy tu chính án thứ nhứt của người Mỹ hoàn
toàn không có giá trị đối với tôi nữa. Trước kia, giữa đám đông, tôi thấy mình
vui vẻ, hoạt náo “tự do ngôn luận” bao nhiêu thì nay tôi lại
càng thấy giá trị của châm ngôn “thinh lặng là vàng” tốt hơn bao giờ hết. Một chút sa sẩy trong một phát biểu về “kẻ mà
ai cũng biết là ai đó” cũng đủ để ăn miểng, nhứt là từ những người đồng đạo của
tôi. Kể từ đó, sinh hoạt xã hội của tôi ngày càng thu hẹp lại. “Lời mẹ dặn” chọn
bạn mà chơi được tôi triệt để áp dụng. Ở tuổi già, tôi thấy mình may mắn hơn
nhiều người, vì tôi vẫn còn một vài người bạn tâm giao.
Song song với việc vun vén tình bạn, tôi cũng thấy mình
đang “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo của tôi. Thật ra, “về thu xếp lại” về niềm tin tôn
giáo không phải là chuyện ngẫu hứng tôi chỉ mới có sau những lần thăm viếng người
bạn thân vừa trải qua cuộc giải phẫu, mà là chuyện trăn trở mỗi ngày của tôi.
Nhưng có lẽ qua những lần thăm hỏi với hiền thê của bạn tôi mà tôi thấy ý nghĩ
“về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo trở nên thúc bách hơn trong tôi. Thật vậy,
trước và sau cuộc giải phẫu của bạn tôi, người vợ hiền của ông, vốn là một phụ
nữ rất mực đạo đức, lúc nào cũng nói đến sức mạnh của niềm tin tôn giáo, đặc biệt
là hiệu năng của lời cầu nguyện. Trước cuộc giải phẫu, gặp bất cứ ai bà cũng
xin cầu nguyện và sau cuộc giải phẫu thành công, bà xem đó như một phép lạ và
không hết lời tạ ơn Chúa.
Từ nhiều năm nay, với những ai xin tôi cầu nguyện hay nói
đến “phép lạ” của lời cầu nguyện, tôi thường giữ thái độ thinh lặng. Không hiểu
từ lúc nào, câu hỏi mà nhà văn Mỹ gốc Do Thái Elie Wiesel (1928-2016), khôi
nguyên của giải Nobel Hòa Bình năm 1986, đã từng đặt ra cho mình lúc bị giam
trong một trại tập trung Đức quốc xã: “Thượng Đế ở đâu?” cũng chính là câu hỏi
mà tôi thường tự đặt ra cho mình khi đứng trước bao nhiêu thảm kịch, đau khổ,
chết chóc mà những người vô tội trên khắp thế giới đã và đang trải qua từng
ngày từng giờ. Elie Wiesel đã nêu lên câu hỏi ấy khi chứng kiến cảnh những người
lính Đức trong một trại tập trung Đức quốc xã treo cổ một thiếu niên. Với câu hỏi
“Thượng Đế ở đâu?”, cuộc hành trình niềm tin tôn giáo của tôi không còn là một
chuỗi những lời van xin “phép lạ”, mà là một cuộc tra vấn Thượng Đế. Cuộc sống
đức tin rốt cục với tôi là một cuộc đối thoại không ngừng với Thượng Đế về
chính nỗi khổ đau và cái chết trong kiếp người.
Tôi sinh ra trong một gia đình công giáo thuần thành. Mới
ba ngày tuổi, chưa mở mắt và còn đỏ hỏn, tôi đã được ẵm tới nhà thờ để được rửa
tội và đặt cho một cái “tên thánh” lạ hoắc lạ huơ. Ba tuổi, vừa bập bẹ biết
nói, tôi đã được dạy để học thuộc lòng
bài giáo lý vỡ lòng: con ai? – thưa con
Chúa; cháu ai? – thưa cháu ông Adong và bà Evà; dòng dõi ai? – thưa dòng dõi
vua David...Thế giới thần tiên tuổi thơ của tôi là thế giới của các thiên thần,
của những người hùng trong sử thi của người Do Thái và dĩ nhiên cũng của người
Tây phương da trắng. Chúa Giêsu và Đức Mẹ chẳng phải là người da trắng đó sao?
Qua các hình tượng của Chúa Giêsu, ánh mắt trẻ thơ của tôi nhìn người da trắng
nào cũng đẹp đẽ cả. Cả thể xác lẫn tinh thần! Nhớ có lần một nữ tu thày dạy tiểu
học của tôi đã thốt lên khi nhìn những người lính đánh thuê “Lê dương” (légionaire):
“Sao họ giống Chúa Giêsu quá!”. Có lẽ bà quên rằng chính mấy ông giống Chúa Giêsu
này từng rượt những phụ nữ trong làng tôi chạy bán sống bán chết.
Tôi đã không chọn niềm tin tôn giáo. Chính cha mẹ tôi đã
trao niềm tin tôn giáo cho tôi như một sản nghiệp quí giá. Mà quí giá thiệt.
Lúc nào tôi cũng biết ơn cha mẹ tôi vì đã trao cho tôi một sản nghiệp quí giá,
bởi nhờ sản nghiệp đó tôi đã làm quen và hấp thụ được nền văn minh Tây Phương
và cũng chính sản nghiệp ấy đã hun đúc trong tôi một lý tưởng phục vụ cao đẹp
cũng như giúp tôi rèn luyện nhân cách. Nhưng cùng với sản nghiệp cao quí đó là
cả một gánh nặng của vô số tội ác mà chính tôn giáo của tôi đã gây ra trong suốt
dòng lịch sử của mình. Trong hàng bao thế kỷ, tôn giáo của tôi đã sử dụng bạo lực
để tiêu diệt người Do Thái với lý do họ là người “kẻ giết Chúa” vì đã đóng đinh
Chúa Giêsu vào thập giá. Thời Trung Cổ, với những cuộc thập tự viễn chinh nhằm
chiếm lại điều được gọi là “thành thánh Giêrusalem”, tôn giáo của tôi cũng đã sử
dụng bạo lực để sát hại người Hồi giáo. Song song với những cuộc thập tự viễn
chinh, tôn giáo của tôi cũng đã sử dụng tối đa bạo lực để loại trừ và ngay cả xử
tử một cách tàn bạo những người bị cho là lạc giáo. Rồi sang Thế kỷ 16, kể từ
sau cuộc Cải Cách của Tin Lành, tôn giáo của tôi lại dính vào không biết bao
nhiêu cuộc chiến tương tàn giữa những người tự xưng là tín hữu Kitô, tức bạn hữu
của Đấng mà cốt lõi của những lời giáo huấn chỉ xoay quanh sự khoan nhượng,
tình yêu thương, sự cảm thông và lòng tha thứ và đã chết trên thập giá để thể
hiện chính lời rao giảng ấy.
Mà có riêng gì Kitô giáo của tôi đâu. Dường như tôn giáo
nào, ít hay nhiều và mãi cho đến ngày nay, cũng đều sa vào con đường bất khoan
nhượng và bạo lực. Tựu trung, khi cái cốt lõi của tôn giáo, như ông bà ta thường
nói: “đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành”, bị đẩy ra
lề niềm tin tôn giáo thì đó chính là lúc tôn giáo chạy theo những phù phiếm, mê
hoặc.
Xét cho cùng, bỏ qua một bên chủ trương bạo động, khủng bố,
đấu tranh giai cấp và hận thù, Karl Marx cũng có lý phần nào khi ông lên án: “tôn
giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”.
Có lẽ nắm vững chân lý “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần
chúng” cho nên các đệ tử của Karl Marx ở Việt Nam ngày nay đã dùng thứ thuốc
phiện đó để ru ngủ quần chúng. Sau khi thu tóm và biến Phật Giáo thành một thứ
tôn giáo “nhà nước” hay được gọi một cách nôm na là “quốc doanh”, Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã thành công trong việc sử dụng tôn giáo này để mê hoặc một bộ phận
không nhỏ quần chúng Việt Nam hiện nay. Tôn giáo đã trở thành một thứ tà giáo,
nhưng lại có sức thu hút và mê hoặc một đám đông không nhỏ. Tiến sĩ Chu Mộng Long,
một tác giả thường xuất hiện trên báo điện tử Tiếng Dân trong nước, đã nhận định
về hiện tượng nầy trong một bài viết có tựa đề “Tà giáo lộng hành”: “Có thể
phòng chống tham nhũng chưa đạt được như mong muốn, nhưng dẫu sao, vẫn đang được
nhà nước giải quyết bằng những vụ khởi tố ra tòa. Trong khi tà giáo thì lại được
tự do hoành hành. Nó tự do đến mức, chỉ cần một cá nhân cạo trọc đầu là có thể
ngang nhiên tuyên truyền mê tín dị đoan, công khai những thủ đoạn lừa đảo mà
hàng triệu người là nạn nhân. Việc các tăng lữ dùng ma đe dọa dân, gieo rắc sự
sợ hãi trong dân để thu gom tiền vàng, nhà đất và hứa hẹn “kiếp sau” cho dân
làm ma giàu sang, phú quý, là lừa đảo trắng trợn, không thể biện minh”(1).
Khi cái cốt lõi của tôn giáo bị gạt ra bên lề niềm tin
tôn giáo thì tôn giáo trở thành tà giáo để mê hoặc quần chúng. Bị cực đoan hóa
hay đánh mất tính khoan nhượng vốn là cốt lõi của tôn giáo, con người cũng trở
nên mê muội. Trong những ngày này, thế giới đang chú ý theo dõi cuộc tổng tuyển
cử tại Ấn Độ, quốc gia được xem là có nền dân chủ lớn nhứt thế giới. Đảng đang
cầm quyền tại nước này có tên là Đảng Quốc gia Ấn giáo (Bharatiya Janata Party
gọi tắt là BJP) muốn biến Ấn giáo thành quốc giáo. Mahatma Gandhi đã dựa vào cốt
lõi của tôn giáo này là sự khoan nhượng để đề ra chủ trương tranh đấu bất bạo động
và thành công trong việc chấm dứt chế độ thực dân của người Anh tại nước này.
Nhưng ngày nay, tinh thần khoan nhượng ấy đã nhường chỗ cho bạo lực chống lại
các tôn giáo thiểu số, đặc biệt là người Hồi giáo.
Tại một quốc gia văn minh và tiến bộ nhứt thế giới hiện
nay là Hoa Kỳ tôi cũng đang nhìn thấy sự trỗi dậy của một trào lưu bất khoan
nhượng tôn giáo như thế. Cựu tổng thống Donald Trump là một hiện tượng chưa từng
thấy trong lịch sử của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Về trí tuệ thì ngu dốt, về luân
lý và đạo đức thì đồi bại, về tư cách thì đốn mạt, về tâm lý thì bất ổn...Chỉ cần nghe những gì ông nói, cụ
thể qua những lời cầu chúc sặc mùi hận thù vào những dịp lễ lớn của Kitô giáo
cũng đủ để thấy tư cách của ông. Vậy mà năm 2016, người Mỹ đã bầu ông vào vị thế
lãnh đạo quốc gia có nền dân chủ lâu đời nhứt thế giới cũng như lãnh đạo thế giới
tự do. Chính lá phiếu của đa số tín hữu Tin Lành da trắng là yếu tố then chốt
đã đưa ông lên cầm quyền. Ngày nay, mặc dù biết rõ, như trường hợp cựu Bộ trưởng
Tư pháp Bill Barr, Donald Trump không có đủ tư cách để làm tổng thống, nhóm tín
đồ Tin Lành da trắng này vẫn không tỏ ra suy suyển trong sự ủng hộ dành cho
ông. Một thái độ như thế, nếu không gọi là mê muội, thì phải dùng tĩnh từ nào
cho xác đáng hơn?
Mỗi khi suy nghĩ về những chế độ chuyên chế hay độc tài
hiện hành hoặc có khuynh hướng trở thành độc tài, tôi vẫn cứ phải nhớ mãi lời của
cụ Tản Đà: “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
cho nên quân nó dễ làm quan”. Không biết có liên tưởng đến lời cụ Tản Đà không,
một người bạn thời tỵ nạn của tôi và nay đang là một luật sư, vốn là một người ủng
hộ ông Trump hết mình, đã nói như tát vào mặt tôi: “Bộ ông tưởng người Mỹ chúng
tôi ngu cả sao?”
Gần đây, ở Úc Đại Lợi này, khi bàn về tình hình chính trị
ở Mỹ, một người bạn trẻ, cũng đã nêu lên thắc mắc: “Có rất nhiều người Mỹ đang ủng
hộ ông Trump, chẳng lẽ họ ngu cả sao!”.
Mỗi lần có ai đó biện luận như thế, tôi thường nghĩ đến
hiện tượng Đức Quốc Xã của Adolf Hitler. Người dân Đức có ngu và mê muội không
khi họ đưa Hitler lên cầm quyền để cai trị với bàn tay sắt và sát hại 6 triệu
người Do Thái cũng như gây ra đau thương tang tóc cho cả thế giới?
Ngày 30 tháng Tư hằng năm, tôi cũng có một suy nghĩ tương
tự. Đất nước có lâm vào cuộc chiến huynh
đệ tương tàn và ngày nay đang bị cai trị
bởi một lũ tham tàn độc ác, cũng bởi một nửa nước, trong đó cả một lớp trí thức
khoa bảng, đã mê muội chạy theo những lời dụ dỗ của một tên điếm đàng. Một mình
Hitler, một mình Hồ Chí Minh hay một mình bất cứ một nhà độc tài nào trên thế
giới này...cũng không có đủ ba đầu sáu tay để gây ra tội ác, nếu không có một
đám đông ngu muội tiếp tay.
Trong tiến trình “về thu xếp lại” về niềm tin tôn giáo của
tôi, tôi luôn cố gắng gạt bỏ hết lớp phấn phù phiếm dễ làm cho lòng người ra cực
đoan và mê muội để chỉ chú tâm sống theo cái cốt lõi của tôn giáo là tình yêu
thương, sự khoan nhượng, tính cảm thông và sự tha thứ. Tựu trung cái cốt lõi ấy
được gói ghém trong hai chữ “Tử tế”. Tôi nghĩ có lẽ đã cắt xén và chắt lọc giáo
huấn của Phật Giáo cho đến cùng cho nên trong một cuộc phỏng vấn dành cho một
nhà thần học người Ba Tây cách đây khá lâu, khi được hỏi: “Theo ngài, tôn giáo
nào là tôn giáo tốt nhứt?”, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng đã trả
lời: “Tôn giáo nào giúp bạn trở thành tử tế đó là tôn giáo tốt nhứt”. Nữ minh
tinh Kiều Chinh có ghi lại trong cuốn Hồi ký của bà rằng trong lần gặp gỡ đầu
tiên với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ấn Độ dạo tháng Tư năm 2014, nhà lãnh đạo tôn
giáo đã nói với bà: “I am just a simple monk. My religion is very simple, it is
kindness” (tôi chỉ là một tu sĩ. Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó là sự tử tế)(2).
Lời dạy thật đơn sơ, nhưng hẳn phải chất chứa một lẽ khôn ngoan thâm sâu. Khi
con người cố gắng sống tử tế với mọi người, họ mới thật sự “sống đạo” và thoát
ra khỏi sự ngu muội và u mê của mình.
Chú thích:
1. Chu Mộng Long, Tà giáo lộng hành, Thoibao.de,
26/04/2024
2. Kiều Chinh, Nghệ sĩ lưu vong, Hồi ký, Văn học Press
2021, trg 406